
Tin tức
Việc làm mới - đòi hỏi cũ (26/10)
06/08/2010 - 58 Lượt xem
Do vậy năm 2010, Chính phủ chỉ dự kiến tăng thêm 1,6 triệu chỗ làm mới cho người lao động dù GDP có thể tăng thêm từ 1-1,5 điểm phần trăm.
Năm nay, việc tạo việc làm mới thấp hơn dự kiến được Chính phủ xếp vào danh sách bảy chỉ tiêu kinh tế vĩ mô không đạt kế hoạch. Bên cạnh đó là sự sút giảm của một chỉ tiêu liên quan là việc đào tạo nguồn nhân lực giảm sút về tốc độ (tốc độ tăng tuyển sinh cao đẳng, đại học dự kiến là 11,4% xuống còn 9,2%, tốc độ tăng tuyển sinh trung cấp chuyên nghiệp từ ước tính 15,6% xuống còn 11,4%). “Đây là những chỉ tiêu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng và phát triển trong các năm sau”, ông Hà Văn Hiền, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, nhận xét.
Tình trạng thiếu việc làm mới, thiếu nguồn nhân lực có mâu thuẫn gì không khi vẫn Ủy ban Kinh tế chỉ ra rằng có hiện tượng không bình thường diễn ra từ quí 2-2009 là xuất hiện tình trạng “khát” lao động trầm trọng đối với những ngành nghề cần nhiều lao động như may mặc, da giày, chế biến thực phẩm, xây dựng, nhất là ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nơi có khoảng 70% lao động nhập cư từ các địa bàn trên cả nước? Câu trả lời là không vì vấn đề “thừa lao động, thiếu việc làm” được Ủy ban Kinh tế xem như hiện tượng mất cân đối cục bộ của nền kinh tế diễn ra từ nhiều năm nay. Thậm chí, nó còn được xếp vào dạng “yếu tố tiềm ẩn bất ổn” trong cân đối vĩ mô. Và đó cũng có thể là nguyên do khiến Chính phủ đã thận trọng khi đưa ra chỉ tiêu tạo việc làm mới trong năm 2010.
Hệ số co giãn việc làm của nền kinh tế giai đoạn 2000-2007 là 0,38, nghĩa là khi GDP tăng thêm 1%, thì số việc làm tăng thêm 0,38%. Hệ số co giãn này ở nước ta thấp hơn so với một số quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Như vậy, tăng trưởng chưa tạo ra lợi ích tốt nhất thông qua khả năng tạo thêm nhiều hơn số việc làm mới cho người lao động. (Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư) |
Đây cũng là mối lo đứng hàng thứ hai trong bốn mối quan tâm hàng đầu của cử tri cả nước gửi đến Quốc hội kỳ này (vấn đề số một là hiệu quả của gói kích cầu kinh tế thứ nhất - được đánh giá là mối quan tâm mang tính thời điểm). Việc Việt Nam được Quỹ Tiền tệ quốc tế (IFM) đánh giá là nước có mức tăng trưởng cao nhất khu vực Đông Nam Á trong chín tháng qua (4,56%) không làm át được mối quan ngại của cử tri về tình trạng người lao động thiếu việc làm và mất việc làm gia tăng, cộng thêm số lượng lao động Việt Nam phải trở về nước do suy thoái kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, quỹ đất nông nghiệp hiện vẫn tiếp tục bị thu hẹp, việc đền bù, tái định cư chưa được quan tâm đúng mức trong khi người dân phần lớn chưa được đào tạo nghề hoặc chỉ được đào tạo qua loa, chất lượng tay nghề không cao nên rất khó kiếm được việc làm.
Quan ngại của cử tri cũng thể hiện một phần trong báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày trước Quốc hội khi ông cho biết rằng năm 2009 tỷ lệ lao động qua đào tạo mới đạt khoảng 38%, cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, tỷ lệ lao động nông nghiệp vẫn còn khoảng 51,7%. Những con số này dường như gây thêm áp lực cho việc tăng trưởng kinh tế, khi mục tiêu từ Đại hội Đảng X đặt ra là đến năm 2010, cơ cấu GDP đối với khu vực nông nghiệp chỉ còn 15-16%, công nghiệp và xây dựng từ 43-44% và dịch vụ từ 40-44%.
Có điều, với tỷ lệ lao động nông nghiệp còn là số đông như trên cùng với tỷ lệ lao động chất lượng cao còn thấp, việc tuyển mới hay khôi phục việc làm cho người lao động gặp nhiều khó khăn là điều dễ hiểu.
Điều này, nhìn xa hơn không đơn giản là hiện tượng mất cân đối cục bộ của nền kinh tế. Nó bắt nguồn từ sự thiếu đồng bộ giữa chính sách kinh tế với chính sách đào tạo nguồn nhân lực kéo dài nhiều năm nay và do vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế không phải là đáp án duy nhất cho bài toán tạo thêm việc làm. Sự thiếu đồng bộ này tồn tại bất chấp quy mô giáo dục, đào tạo các cấp học mỗi năm một tăng và việc đầu tư cho khoa học, công nghệ cũng đã có những bước thay đổi.
Sự thiếu đồng bộ của chính sách kinh tế với chính sách đào tạo nguồn nhân lực, phần nào có thể nhìn thấy qua việc các chính sách kinh tế, thu hút đầu tư, tăng trưởng nhiều năm qua chủ yếu phục vụ chính mục đích này, thay cho việc giải bài toán tổng thể, trong đó có việc thu hút đầu tư để chuyển giao kinh nghiệm, công nghệ và đào tạo nhân lực. Lấy ví dụ, cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng tập trung vào lĩnh vực bất động sản (từ mức 36,8% năm 2008 đã tăng mạnh đến trên 60% trong sáu tháng đầu năm nay) sẽ không tạo ra nhiều việc làm so với việc đầu tư vào sản xuất hay các lĩnh vực khác. Việc sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) rất chậm cũng làm chậm quá trình tạo việc làm mới hay nâng cao chất lượng lao động. Bởi lẽ, với sự năng động và tính cạnh tranh cao của khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài (FDI) đã khiến cho chất lượng và số lượng lao động đều được cải thiện ở hai khu vực này. Tiến sĩ Nguyễn Đình Tài, Phó chủ nhiệm Câu lạc bộ Doanh nghiệp Nhà nước (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cũng phải thừa nhận rằng xét về hiệu quả tạo việc làm, suất đầu tư vốn để tạo thêm một việc làm của khu vực tư nhân thấp hơn đáng kể so với suất đầu tư của DNNN và doanh nghiệp FDI.
Năm 2007, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước cần 463 triệu đồng, doanh nghiệp FDI cần 505 triệu đồng để tạo ra một việc làm mới. Trong khi con số này ở DNNN là 708 triệu. Một lý do khác khiến việc sắp xếp lại DNNN càng trở nên thôi thúc hơn để tạo thêm việc làm, theo ông Tài là do khu vực kinh tế tư nhân đang tạo ra phần lớn công ăn việc làm của nền kinh tế. Từ năm 2002-2007, khu vực này đã tạo thêm 2,23 triệu việc làm mới và khu vực FDI tạo thêm gần 1 triệu việc làm nhưng cùng thời gian, các DNNN đã cắt giảm gần nửa triệu lao động.
Nguồn: TBKTSG
