
Tin tức
Từ hàng rào đến rào cản (29/10)
06/08/2010 - 19 Lượt xem
Ông đánh giá thế nào về hàng rào kỹ thuật thương mại của Việt Nam hiện nay đối với hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài?
- Thực tế Việt Nam chưa thể công bố một bộ hàng rào kỹ thuật nào một cách đầy đủ vì chúng ta đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nó.
Nói về hàng rào kỹ thuật, có hai cách phân loại là hàng rào bằng thuế quan và hàng rào phi thuế quan. Hàng rào thuế quan thì Việt Nam đã có tương đối đầy đủ còn hàng rào phi thuế quan rất rộng và phức tạp thì chúng ta còn nhiều lúng túng.
Bộ Công Thương đang xây dựng đề án “Hàng rào kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu”. Do vậy, ở thời điểm hiện tại, nó chưa thể trở thành rào cản đối với hàng nhập khẩu trong các trường hợp cần thiết.
Có lẽ do vậy mà chúng ta luôn nhận được các thông tin về một số mặt hàng nhập khẩu chính ngạch hay qua đường tiểu ngạch như quần áo trẻ em hay thực phẩm kém chất lượng nhưng không thể kiểm soát được và do vậy, mục tiêu bảo vệ cộng đồng bằng hàng rào kỹ thuật hiện nay là chưa thể?
- Hầu như hàng rào kỹ thuật nào được dựng nên cũng vì mục tiêu nào đó nhưng trước hết, nó phải tuân thủ các yêu cầu, cam kết trong các hiệp định kinh tế song phương và đa phương. Một hàng rào kỹ thuật mà tiến tới được mục tiêu bảo vệ cộng đồng nói chung, thay vì bảo hộ hàng hóa nội địa, phải được thực hiện trong sự tương thích đồng bộ cùng Luật Cạnh tranh, Luật Bảo vệ người tiêu dùng.
Luật Cạnh tranh ở nước ta đã có nhưng Luật Bảo vệ người tiêu dùng đang được sửa đổi cho sát với thực tế hơn (hiện luật này còn chưa bảo vệ được người tiêu dùng trong các trường hợp cần thiết). Hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật ở Việt Nam chưa hoàn thành sứ mệnh kiểm soát nguồn gốc nhập khẩu nên khó có thể nói nó có thể trở thành rào cản để bảo vệ hàng nội hay bảo vệ người tiêu dùng được.
Người ta thường nói dựng hàng rào kỹ thuật để bảo vệ hàng hóa trong nước, nhưng theo ông, làm thế nào để giải quyết được mục tiêu bảo vệ cộng đồng - cái đích cao nhất mà WTO hướng các quốc gia thành viên áp dụng thay cho bảo vệ, thậm chí bảo hộ hàng nội một cách thiếu công bằng?
- Nếu kết hợp các mục tiêu nói trên lại bằng cách sử dụng nhiều biện pháp được WTO cho phép thì ta vừa có hàng rào kỹ thuật hữu hiệu vừa bảo vệ được sản xuất, bảo vệ chính đáng hàng nội nữa cùng với mục tiêu bảo vệ cộng đồng. Nhưng các mục đích này không thể áp dụng cho tất cả các loại hàng hóa mà chỉ có thể đặt ra xem xét ở từng mặt hàng cụ thể, từng thời điểm cụ thể.
Chính vì thế, các nhà quản lý và doanh nghiệp phải nắm chắc các cam kết quốc tế, các hiệp định song phương và đa phương. Ví dụ như một mặt ta tận dụng tốt những ưu đãi của các quốc gia khác đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường nước đó. Nhưng trong thời gian tận dụng các ưu đãi đó thì cũng phải tranh thủ xây dựng bộ hàng rào kỹ thuật ở quốc gia mình để vừa xuất khẩu hàng hóa một cách an toàn, vừa nâng cao năng lực sản xuất, cạnh tranh của hàng nội.
Vậy thì trước mắt, để ngăn cản hàng nhập khẩu kém chất lượng hay kiểm soát các mặt hàng cạnh tranh không lành mạnh chúng ta chỉ có một công cụ hữu hiệu là hàng rào thuế quan?
- Khi đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam được chấp thuận việc duy trì một chính sách thuế nhập khẩu với lộ trình giảm dần, mở cửa dần chứ không bắt buộc phải quy về 0% ngay trong những năm đầu tiên.
Trong khi đó, các hàng rào phi thuế quan như hàng rào kỹ thuật nếu đã áp dụng với hàng hóa nhập khẩu thì cũng phải áp dụng với hàng hóa nội địa trên tinh thần không phân biệt đối xử, đảm bảo công bằng như WTO đề ra. Và như tôi đã nói, do tiêu chuẩn kỹ thuật hàng hóa của Việt Nam còn thấp, thậm chí tiêu chuẩn nhiều mặt hàng thấp hơn mức trung bình của thế giới nên việc đưa nó ra thành hàng rào quả là khó khăn.
Có lẽ nào vì chưa thể làm được những điều đó nên người tiêu dùng trong nước thì chưa được bảo vệ còn hàng hóa Việt Nam đi nước ngoài vẫn phải “chung sống” lâu dài với các rào cản kỹ thuật khắt khe của nhiều nước mà thực chất là các hành vi bảo hộ mậu dịch? Vậy hàng xuất khẩu Việt Nam sẽ phải học cách thích ứng nó ra sao?
- Điều quyết định là nâng cao năng lực sản xuất, trình độ công nghệ và chất lượng hàng hóa. Nếu điều kiện sản xuất được nâng lên, thị trường được củng cố thì đến lúc chúng ta sẽ không xem các tiêu chuẩn, hàng rào kỹ thuật đó là rào cản nữa mà xem đó chính là nấc thang để nâng cao chất lượng hàng hóa, trình độ sản xuất của doanh nghiệp ở những thị trường lớn. Khi hàng hóa Việt Nam có chỗ đứng vững chắc ở thị trường nước ngoài nhờ chất lượng và giá cả cạnh tranh thì vấn đề hàng rào hay rào cản kỹ thuật cũng không còn là nỗi lo lắng, ám ảnh nữa.
Thích ứng với rào cản thương mại Khủng hoảng kinh tế khiến các rào cản thương mại được dựng lên ngày càng nhiều để hạn chế hàng nhập khẩu. Dù muốn dù không các doanh nghiệp trong nước vẫn phải nỗ lực xoay xở để thích ứng với những quy định mới khắt khe hơn. Dưới đây là một số quy định mới, đã và sắp có hiệu lực, trong năm 2009 và 2010 ở một số thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. 1. Từ ngày 1-1-2010, Quy định số 1005/2008 ngày 29-9-2008 của Liên hiệp châu Âu (EC) về thiết lập một hệ thống kiểm soát nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và xóa bỏ các hoạt động khai thác đánh bắt thủy sản bất hợp pháp (illegal, unreported and unregulated fishing - IUU) có hiệu lực. 2. Liên quan đến thị trường Mỹ, theo Đạo luật Nông nghiệp Mỹ 2008 (Farm Bill 2008) dự kiến có hiệu lực từ ngày 1-1-2010 sẽ ảnh hưởng lớn đến việc xuất khẩu cá tra và cá ba sa của Việt Nam. Trước hết, nếu cá tra, cá ba sa Việt Nam bị định nghĩa lại là catfish thì sẽ là đối tượng quản lý của đạo luật này (theo Farm Bill 2002 cá tra, cá ba sa của Việt Nam không phải là catfish - tên gọi chung cá da trơn, mà thuộc dòng pangasius). Thứ hai, trong luật có một điều khoản gọi là “chính sách tương đương”, có nghĩa là các quốc gia xuất khẩu cá da trơn vào thị trường Mỹ phải đáp ứng các điều kiện tương đương với Mỹ về luật pháp, năng lực thực hiện luật, kiểm soát năng lực sản xuất... Do vậy trong trường hợp, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) nói công nghiệp nuôi và chế biến cá tra, cá ba sa của Việt Nam không tương đương với điều kiện của Mỹ thì tất nhiên cá tra của Việt Nam sẽ bị cấm xuất vào Mỹ, đó là chưa kể bị thanh tra, giám sát liên tục của USDA. Farm Bill 2008 cũng chú ý đến việc sử dụng lao động trong sản xuất sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Vì vậy, doanh nghiệp cần đảm bảo điều kiện lao động và sử dụng lao động không vi phạm quy định quốc tế về sử dụng lao động trẻ em và lao động cưỡng bức. 3. Cũng với thị trường Mỹ, đạo luật Lacey sửa đổi đã có hiệu lực từ ngày 22-5-2008, tuy nhiên, từ 1-4-2009 mới là thời điểm bắt buộc nộp tờ khai với tất cả các giao dịch thương mại liên quan đến thực vật và các sản phẩm từ thực vật. Luật Lacey buộc nhà nhập khẩu khai báo chi tiết đối với từng loại sản phẩm, chẳng hạn tên khoa học của thực vật (theo giống và loài), giá trị nhập khẩu, khối lượng thực vật, tên của quốc gia mà thực vật được thu hoạch (có thể khác với nước xuất xứ thành phẩm). Quy định này sẽ ảnh hưởng lớn đến các nhà xuất khẩu đồ gỗ Vệt Nam, theo Hiệp hội Lâm sản Việt Nam, do các nhà nhập khẩu có thể yêu cầu người bán hỗ trợ việc xác định sản phẩm theo yêu cầu khai báo nhập khẩu. Họ cũng có thể yêu cầu đối tác Việt Nam phải có hệ thống kiểm tra chi tiết, lần tìm lại quốc gia xuất xứ thu hoạch để việc khai báo được chính xác. 4. Hàn Quốc cũng đang có một số thay đổi về chính sách nhập khẩu và điều này có thể gây khó khăn hơn cho xuất khẩu của Việt Nam. Ví dụ như việc nước này tuyên bố thắt chặt kiểm tra các sản phẩm nhập khẩu theo hình thức OEM (Original Equipment Manufacturing) chính thức vào ngày 19-6-2009. Theo đó, các doanh nghiệp Hàn Quốc nhập khẩu sản phẩm từ các công ty OEM ở nước ngoài cần phải kiểm tra cơ sở sản xuất của các công ty OEM ít nhất một lần trong một năm. Điều này cũng đồng nghĩa với việc chi phí và các thủ tục nhập khẩu sẽ gia tăng. Mặt khác với các công ty OEM của các doanh nghiệp nhập khẩu Hàn Quốc họ cũng phải đầu tư nhiều hơn cho công nghệ, nguyên liệu và tốn kém chi phí hơn. Với những khó khăn trên có thể nói đây là một rào cản mới cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản thực phẩm vào thị trường Hàn Quốc. 5. Theo Ủy ban An toàn sản phẩm tiêu dùng Hoa Kỳ (CPSC) luật mới về an toàn sản phẩm nhập khẩu vào Mỹ đã được thông qua kể từ ngày 14-8-2008. Luật này có nhiều quy định và các quy định có lộ trình hiệu lực khác nhau. Theo đó, tất cả các sản phẩm dệt may xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ tuân thủ theo những quy định mới chính thức có hiệu lực từ tháng 2-2009. Ủy ban này sẽ tăng cường giám sát nghiêm ngặt hơn nữa các quy định an toàn sản phẩm như tính dễ cháy của vải, cấm tuyệt đối các sản phẩm có dây thắt ở vùng cổ trên áo, đặc biệt là áo trẻ em. Nếu trước đây luật quy định buộc tái xuất các sản phẩm vi phạm an toàn khi nhập khẩu vào Mỹ thì nay quy định mới cho phép CPSC có quyền tiêu hủy các sản phẩm vi phạm về tính an toàn. Ngoài ra, mức phạt đối với các nhà nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ khi vi phạm cũng sẽ tăng lên đến 15 triệu đô la Mỹ, trước đây mức phạt này tối đa là vài triệu đô la Mỹ. |
Nguồn: TBKTSG
