
Tin tức
Hệ lụy từ sự mất cân đối cơ cấu vốn (06/11)
06/08/2010 - 28 Lượt xem
Tốc độ tăng vốn huy động giảm không phải do lãi suất huy động thua tốc độ tăng giá tiêu dùng, mà trái lại còn thực dương, nhưng không hấp dẫn bằng một số kênh đầu tư khác. Sau 10 tháng (tháng 10/2009 so với tháng 12/2008), giá tiêu dùng chỉ tăng 4,69%, trong khi lãi suất tiết kiệm 10 tháng (tính theo kỳ hạn năm) khoảng 8%, giá vàng tăng 35,1%, giá USD tăng 5,74%, giá bất động sản và vật liệu xây dựng tăng 10,2%, VN - Index tăng 86% (từ tháng 3/2009 đến nay tăng 138,9%)...
Ngoài ra, lãi suất huy động năm 2008 khá cao; số dư huy động tính đến cuối năm 2008 khá lớn; từ năm 2009, lãi suất huy động được điều chỉnh giảm (chỉ còn bằng 50% thời kỳ đỉnh điểm), không những khó thu hút lượng tiền mới, mà nguồn vốn từ tiền gửi tiết kiệm cũng khó hút trở lại, do trùng với thời kỳ giá vàng và giá chứng khoán tăng mạnh.
Tính chung 9 tháng, tốc độ tăng vốn huy động đạt khoảng 22%, mặc dù lãi suất huy động đã được nhiều ngân hàng thương mại điều chỉnh tăng.
Trong khi đó, từ tháng 6/2009, tốc độ tăng cho vay luôn cao hơn tốc độ tăng vốn huy động. Tính chung 9 tháng đầu năm nay, dư nợ tín dụng tăng trên 28%, cao hơn tốc độ tăng vốn huy động và gần bằng khung 30% đề ra cho cả năm.
Trong cuộc họp Chính phủ cuối tháng 10, Thủ tướng đã quyết định tiếp tục hỗ trợ lãi suất thông qua gói kích cầu thứ hai, trong đó tiếp tục hỗ trợ lãi suất cho vay ngắn hạn đến hết quý I/2010, với mức hỗ trợ 2%; các gói hỗ trợ lãi suất trung, dài hạn, hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn được kéo dài đến hết năm 2010, lãi suất 2%.
Cùng với việc hỗ trợ lãi suất, việc cho vay hỗ trợ lãi suất thông qua hệ thống ngân hàng còn có tác dụng kéo một lượng vốn lớn hơn gấp nhiều lần từ hệ thống ngân hàng thương mại ra lưu thông.
Trong bối cảnh tốc độ tăng dư nợ tín dụng cao hơn tốc độ tăng huy động, cần lưu ý tới các hệ quả.
Thứ nhất, lạm phát chưa đến ngay, do độ trễ của yếu tố tiền tệ - tín dụng, nhưng có thể sẽ đến vào dịp đầu năm 2010 (cộng hưởng từ nhu cầu cao hơn của sản xuất, tiêu dùng; cộng hưởng từ các yếu tố lạm phát của thế giới).
Thứ hai, tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại sẽ bị ảnh hưởng.
Thứ ba, các ngân hàng thương mại thiếu vốn thường phải vay ngoài xã hội, nên sẽ đẩy tăng lãi suất huy động, hoặc vay trên thị trường liên ngân hàng, kéo lãi suất thị trường liên ngân hàng lên cao.
Lãi suất huy động tăng có tác dụng hút tiền từ lưu thông về, nhưng chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động sẽ rất thấp, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động quý IV và cả năm.
Trong 3 tháng trở lại đây, giá cổ phiếu của các ngân hàng trên thị trường chứng khoán tăng thấp, thậm chí còn bị giảm, trong khi thị trường chung tăng cao.
Thứ tư, Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 22/5/2009 đã quy định vốn vay trên thị trường liên ngân hàng là nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời dự trữ bắt buộc và khả năng thanh toán, không dùng để cho vay đối với các tổ chức, cá nhân, nhưng nhiều ngân hàng thương mại không chấp hành nghiêm chỉnh, vẫn sử dụng để tăng trưởng dư nợ tín dụng.
Một vấn đề khác là yếu tố tỷ giá. Trong điều kiện đô la hoá còn cao, lượng ngoại tệ vào nước ta từ một số nguồn bị sụt giảm, tình trạng găm giữ ngoại tệ của nhiều doanh nghiệp xuất khẩu còn lớn và kéo dài..., thì việc không phá giá VND, cũng như không nâng tiếp biên độ tỷ giá giao dịch là một cố gắng đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, theo Tổng cục Thống kê, sau 10 tháng, tỷ giá VND/USD đã tăng 5,74% và tính bình quân 10 tháng so với cùng kỳ năm 2008 đã tăng 9,09% (cùng kỳ năm trước tăng tương ứng 2,95% và 1,71%).
Sự biến động của tỷ giá tuy có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, nhập siêu, nhưng lại làm cho hàng nhập khẩu có giá cao hơn; nếu lạm phát thế giới tăng, thì sẽ làm cho lạm phát ở trong nước bị khuếch đại.
Nguồn: Đầu tư
