
Tin tức
Thách thức an ninh năng lượng (17/11)
06/08/2010 - 21 Lượt xem
Việc tìm nguồn năng lượng tái tạo bền vững thay thế năng lượng truyền thống là một vấn đề mang tính sống còn.
Khả năng mất cân đối cung - cầu
Theo tính toán quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia, trong giai đoạn 2010-2020, VN có thể xuất hiện mất cân đối giữa khả năng cung cấp và nhu cầu sử dụng các nguồn năng lượng. Do đó, VN sẽ trở thành một nước phải nhập khẩu năng lượng và mức độ phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu sẽ ngày một tăng, trong khi các nguồn năng lượng của VN sẽ trở nên khan hiếm.
Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng trong hội nghị góp ý cho Dự án Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả được tổ chức mới đây tại TP.HCM đã nhấn mạnh đến điều này. Ông cho biết, các nguồn năng lượng tái tạo hầu như chưa được khai thác, sử dụng, trong khi các nguồn năng lượng không tái tạo như than đá, dầu thô, khí đốt sẽ cạn kiệt dần trong vài chục năm tới. "VN sẽ trở thành nước phải nhập khẩu than đá, năm 2020 phải nhập khoảng 80 - 100 triệu tấn để chạy các nhà máy nhiệt điện" - ông Vũ Huy Hoàng cho biết.
Hơn thế nữa, việc gia tăng sử dụng các nguồn năng lượng truyền thống luôn kèm theo những nguy cơ về suy giảm chất lượng môi trường. Ở nước ta, hơn 80% nguồn năng lượng sử dụng là nhiên liệu hóa thạch, có nguồn gốc hữu cơ. Nguồn nhiên liệu này tạo ra khoảng 25% lượng phát thải CO2 và khoảng 15% tổng lượng khí nhà kính, gây ô nhiễm môi trường. Các đập thủy điện phát triển ồ ạt mà không kiểm soát chặt chẽ việc xả lũ cũng đã bộc lộ nhiều nhược điểm như đã xảy ra ở miền Trung sau những cơn bão số 9 và 11 vừa qua.
Tìm nguồn năng lượng mới
Đến năm 2010, xây dựng và phát triển được các mô hình sản xuất thử nghiệm và sử dụng nhiên liệu sinh học quy mô 100.000 tấn xăng sinh học E5 và 50.000 tấn dầu sinh học B5/năm, bảo đảm đáp ứng 0,4% nhu cầu xăng dầu của cả nước. Đến năm 2015, sản lượng ethanol và dầu thực vật đạt 250.000 tấn (pha được 5 triệu tấn E5, B5), đáp ứng 1% nhu cầu xăng dầu của cả nước. Tầm nhìn đến năm 2025, sản lượng ethanol và dầu thực vật đạt 1,8 triệu tấn, đáp ứng khoảng 5% nhu cầu xăng dầu của cả nước. (Theo đề án Phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025) |
Trong điều kiện nhiên liệu hóa thạch ngày càng cạn kiệt, giá nhiên liệu liên tục tăng như hiện nay thì việc nghiên cứu tìm ra nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo (NLTT) thay thế năng lượng truyền thống là một giải pháp hết sức cấp bách.
Năng lượng sinh học nói chung, là một loại NLTT, được coi là một trong những nhiên liệu thân thiện với môi trường. Do đó việc nghiên cứu phát triển nguồn năng lượng sinh học có ý nghĩa hết sức to lớn đối với vấn đề an ninh năng lượng thế giới nói chung và VN nói riêng.
Theo thạc sĩ Huỳnh Kim Tước, Giám đốc Trung tâm Tiết kiệm năng lượng TP.HCM, tiềm năng về sản xuất nhiên liệu sinh học ở nước ta là có sẵn, như có thể sản xuất bio-diesel từ nguồn mỡ cá (cá tra, cá basa...), từ dầu ăn phế thải. Ngoài ra, VN có thể đầu tư trồng cây jatropha (còn gọi là cây cọc rào) và các loại cây có dầu khác để sản xuất loại nhiên liệu sinh học này.
VN còn có thể sản xuất ethanol - xăng sinh học - từ sắn (khoai mì), mía đường, thậm chí từ rơm, trấu, vỏ cà phê, bột gỗ, tre và đặc biệt là từ tảo (7 dòng tảo có tiềm năng phù hợp cho sản xuất ethanol). VN có những vùng có điều kiện địa lý tự nhiên rất thích hợp cho việc phát triển điện mặt trời, phong điện và điện từ sóng biển.
Cần hành lang pháp lý
Theo Bộ Công thương, việc phát triển các nguồn năng lượng sạch, NLTT thay thế các nguồn năng lượng truyền thống (xăng, dầu, than đá...) đang gặp nhiều khó khăn, do hạn chế về khả năng công nghệ, tiềm lực tài chính. Ngoài ra, Việt Nam hiện chưa có đủ hành lang pháp lý để khuyến khích sử dụng NLTT trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của cộng đồng.
Ngay cả việc sử dụng nhiên liệu sạch như khí thiên nhiên cho các phương tiện giao thông vận tải cũng đang gặp nhiều khó khăn. Tại một cuộc hội thảo mới đây do Hàn Quốc và VN tổ chức về sử dụng khí thiên nhiên cho phương tiện vận tải, ông Huỳnh Kim Tước nói: Hàn Quốc thành công trong việc sử dụng khí thiên nhiên cho phương tiện vận tải là nhờ có những chính sách hỗ trợ từ phía Chính phủ. Còn ở VN, chúng ta đang thiếu chính sách như ở Hàn Quốc, thiếu tài chính, công nghệ và chưa có tiêu chuẩn để sử dụng loại nhiên liệu này.
Được biết, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công thương và các cơ quan liên quan soạn thảo, ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực này, như Quy hoạch phát triển NLTT; Nghị định về khuyến khích phát triển NLTT... Gần đây là Quyết định số 177/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025 nhằm phát triển nhiên liệu sinh học, một dạng năng lượng mới, tái tạo để thay thế một phần nhiên liệu hóa thạch truyền thống, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường. Theo đề án, đến năm 2010 xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách và văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý để thu hút đầu tư, khuyến khích sản xuất quy mô công nghiệp và sử dụng nhiên liệu sinh học; nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò quan trọng và lợi ích to lớn của nhiên liệu sinh học; xây dựng lộ trình sử dụng nhiên liệu sinh học để thay thế một phần nhiên liệu hóa thạch đang sử dụng trong ngành giao thông vận tải, các ngành công nghiệp khác và mô hình thí điểm phân phối nhiên liệu sinh học tại một số tỉnh, thành phố. (Còn tiếp)
Mai Vọng
Năng lượng tái tạo bị bỏ phí
- Hiện tại, nguồn điện của chúng ta đang được tạo ra bởi 3 nguồn sơ cấp là nhiệt điện, thủy điện và tuabin khí với tổng công suất đạt 15.000 MW. Theo tính toán, đến năm 2015, cả nước cần 30.000 MW, năm 2020 là 47.000 MW, năm 2025-2030 cần từ 79.000 - 80.000 MW để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, các dự án thủy điện có công suất từ 50 MW trở lên, đã được quy hoạch và hầu hết đang trong quá trình xây dựng, đến năm 2015-2020 là hoàn thành và khi đó chúng ta không có thêm dự án tương tự nào được triển khai nữa. Thủy điện nhỏ đến năm 2025 cũng khai thác hết tiềm năng và tổng công suất tối đa là khoảng 300-400 MW. Tuabin khí thì mỗi năm chúng ta có thể khai thác tối đa 10 tỉ m3, trước mắt khai thác 5 - 6 tỉ m3, đưa vào vận hành nhà máy điện tối đa đạt 10.000 MW. Nhiệt điện chạy than có khả năng phát triển nhiều nhất nhưng từ năm 2013, nước ta đã bắt đầu phải nhập khẩu than. Vừa qua Chính phủ cho phép đầu tư xây dựng 13 nhà máy nhiệt điện với tổng công suất 13.800 MW. Bên cạnh đó, dầu khí cũng đang được khai thác, và đang ngày càng vơi dần. Tóm lại, năng lượng hóa thạch (than, khí...) của chúng ta đang cạn dần, trong khi nhu cầu về năng lượng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ngày một tăng. * Dù nhu cầu năng lượng tái tạo rất bức thiết nhưng đến nay, hình như chúng ta mới chỉ bắt đầu đặt những “viên gạch đầu tiên” trong việc khai thác nguồn năng lượng nhiều tiềm năng này, thưa ông? - Chúng ta đã bỏ phí nguồn năng lượng này trong một khoảng thời gian dài. Dẫu vậy, hiện chúng ta đã bắt đầu khai thác và bước đầu đã đạt được những thành quả nhất định, tuy so với tiềm năng thì còn rất khiêm tốn. Cụ thể, hiện đã có dự án đầu tư khai thác địa nhiệt ở Tu Bông (Khánh Hòa) với công suất 20 MW, 1 dự án phong điện tại Bình Thuận và đến năm 2015 sẽ có thêm nhiều dự án phong nhiệt nữa sẽ được triển khai, Tập đoàn Dầu khí quốc gia xây dựng 3 nhà máy sản xuất cồn ethanol... Nguồn năng lượng này đã được đánh thức, hy vọng trong tương lai không xa, chúng ta sẽ có thêm nhiều nguồn năng lượng sạch. * Xin cảm ơn ông! |
Nguồn: Thanh Niên
