Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Thách thức an ninh năng lượng: “Đốt” năng lượng gấp nhiều lần thế giới! (19/11)

06/08/2010 - 27 Lượt xem

Chi phí NL trên giá thành sản phẩm của hầu hết các doanh nghiệp (DN) đều chiếm tỷ lệ khá cao, nên việc giảm chi phí NL là một giải pháp hiệu quả và quan trọng để hạ giá thành sản phẩm. Đó là ý kiến của nhiều đại biểu trong một buổi tọa đàm về tiết kiệm NL do Trung tâm Tiết kiệm NL TP.HCM tổ chức mới đây tại TP.HCM.

Theo ông Trần Duy Linh, Giám đốc Công ty TNHH Garan, công nghệ của chúng ta lạc hậu kéo theo hiệu quả sử dụng vốn thấp. Ông Linh so sánh với Thái Lan: "Để sản xuất ra 1 USD GDP, người Thái chỉ cần đến 1 USD, thì VN lại cần đến 3 USD". Và ông nhận định: "Vấn đề sống còn của các DN trong cơ chế hội nhập hiện nay là đổi mới công nghệ, giảm chi phí đầu tư, hạ giá thành sản phẩm và tăng hiệu quả sản xuất. Chỉ có bằng cách này chúng ta mới có thể đứng vững trong cuộc cạnh tranh không những trên thị trường quốc tế mà ngay cả trên chính sân nhà".

Đổi mới công nghệ như ông Linh nói cũng đồng nghĩa với việc tăng hiệu suất sử dụng NL. Theo Bộ Công thương, hiệu suất sử dụng NL trong các nhà máy điện đốt than, dầu của nước ta chỉ đạt được từ 28-32%, thấp hơn các nước phát triển khoảng 10%; hiệu suất các lò hơi công nghiệp chỉ đạt khoảng 60%, thấp hơn mức trung bình của thế giới khoảng 20%. Trong khi đó, NL tiêu hao cho một đơn vị sản phẩm các ngành công nghiệp chính của nước ta cao hơn nhiều so với các nước phát triển. Để sản xuất ra 1 tấn thép từ nguyên liệu quặng, các nhà máy thép của ta cần 11,32 - 13,02 triệu Kcl, trong khi mức tiên tiến của thế giới chỉ cần 4 triệu Kcl; luyện thép từ thép phế liệu ta cần 2,82 triệu Kcl, thế giới cần 2 triệu Kcl...

Theo tính toán, cường độ NL trong công nghiệp của VN cao hơn Thái Lan và Malaysia khoảng 1,5 - 1,7 lần. Như vậy, để làm ra cùng một giá trị sản phẩm như nhau, sản xuất công nghiệp của nước ta phải tiêu tốn năng lượng gấp 1,5-1,7 lần các nước trên.

Theo phân tích của Bộ Công thương, tỷ lệ giữa tăng trưởng nhu cầu năng lượng so với tăng trưởng GDP của nước ta đến 2 lần, trong khi ở các nước phát triển, tỷ lệ này là dưới 1. Như vậy, tiềm năng tiết kiệm NL ở nước là không nhỏ. Như tại TP.HCM, kết quả thực hiện kiểm toán NL cho 98 khách hàng ở lĩnh vực sản xuất công nghiệp trong năm 2008 của Công ty điện lực TP cho thấy tiềm năng tiết kiệm điện là 78,29 triệu kWh/năm, tương ứng số tiền tiết kiệm là 78 tỉ đồng. Rõ ràng đây là con số không nhỏ trong bối cảnh suy thoái kinh tế và sự cạnh tranh khốc liệt trên thương trường.

Còn theo nghiên cứu, tính toán của Bộ Công thương, các ngành sản xuất như xi măng, thép, sành sứ, đông lạnh, hàng tiêu dùng... có tiềm năng tiết kiệm NL đạt khoảng 20%; lĩnh vực xây dựng dân dụng và giao thông vận tải có thể tới trên 30%.

Chỉ riêng trong lĩnh vực giao thông vận tải, việc để xe nổ máy khi dừng đèn đỏ quá lâu hay tình trạng ùn tắc giao thông tại các đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM cũng gây lãng phí nhiên liệu rất lớn và hậu quả là chính những người tham gia giao thông hít phải bầu không khí ô nhiễm nghiêm trọng. TS Phạm Xuân Mai (Đại học Bách khoa TP.HCM) cho rằng, mọi người nên tắt máy xe khi dừng chờ đèn đỏ quá 30 giây, không chỉ để tiết kiệm nhiên liệu mà còn giúp giảm ô nhiễm môi trường. Việc này cũng có thể thực hiện trong trường hợp ùn tắc giao thông kéo dài.

Gần đây, chủ trương sử dụng NL tiết kiệm và hiệu quả được đặt ra như là một nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. VN đang cần có Luật Sử dụng NL tiết kiệm và hiệu quả, nhằm cụ thể hóa mục tiêu tiết kiệm NL, cùng với việc phát triển NL, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Nguồn: Thanh Niên