
Tin tức
Phân cấp mạnh nhưng năng lực cạnh tranh không tăng (23/11)
06/08/2010 - 21 Lượt xem
Bên cạnh mặt tích cực, các vấn đề khác của sự phân cấp mạnh mẽ này là hiệu lực của quy hoạch ngành và vùng của quốc gia, khả năng hình thành các khu công nghiệp được chuyên môn hóa, kết nối thành từng cụm (cluster) có công nghiệp, dịch vụ phụ trợ gắn kết, có cơ sở giáo dục-đào tạo, nghiên cứu khoa học phù hợp đang là dấu hỏi lớn.
Hiệu quả sử dụng đất đai, tài nguyên thấp, tình trạng sử dụng lãng phí tài nguyên diễn ra phổ biến. Lao động được đào tạo thiếu trầm trọng. Ô nhiễm môi trường từ các khu công nghiệp, làng nghề đang trở thành hiện thực và đe dọa sự tăng trưởng bền vững trong tương lai. Các vụ đình công tăng đột biến cũng là một hiện tượng chưa được dự báo và chuẩn bị trước.
Đáng chú ý là sự phân cấp cho các tỉnh, thành phố không gắn liền với sự cải thiện các chỉ số về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Dự án Sáng kiến Năng lực cạnh tranh (VNCI) và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố.
Trái lại, có một số mặt thụt lùi về điểm số như tiếp cận đất đai hay ít có tiến bộ như chi phí ngoài pháp luật. Các chỉ số về năng lực cạnh tranh quốc gia (do Diễn đàn Kinh tế thế giới công bố), về môi trường kinh doanh (do Ngân hàng Thế giới công bố) của Việt Nam nói chung đều bị tụt hạng trong năm 2009.
Điều đó đòi hỏi chúng ta phải xem xét một cách nghiêm túc quá trình phát triển vừa qua, đánh giá một cách khách quan thực trạng và đề xuất những kiến nghị tiếp tục cải cách.
Điểm qua một vài lĩnh vực
Có thể ghi nhận những thay đổi rất năng động của các địa phương ở một số lĩnh vực có liên quan. Hầu hết các tỉnh đã hưởng ứng nhanh quyết định phân cấp mạnh hơn về cấp phép các dự án đầu tư nước ngoài đến 50 triệu đô la cho cấp tỉnh. Phần lớn các tỉnh, thành phố đều lập bộ phận xúc tiến đầu tư - thương mại và đã đẩy mạnh rõ rệt các hoạt động trên lĩnh vực này như tổ chức hội thảo thu hút đầu tư, tổ chức các chuyến đi nước ngoài nhằm kêu gọi đầu tư. Các hoạt động này đều có kết quả nhất định, tuy chưa cao.
Thu hút đầu tư nước ngoài cũng có đột biến quan trọng. Số dự án và số vốn cam kết tăng rất mạnh, số vốn thực hiện tăng chậm hơn và chất lượng của các dự án gây nhiều tranh cãi và nghi vấn.
Thí dụ như sự bùng nổ về sân golf trong hai năm sau khi gia nhập WTO. Cả nước có 166 dự án sân golf, trong đó 145 dự án đã được cấp đất, 83 dự án đã được cấp phép, với 10.500 héc ta đất nông nghiệp, trong đó có 2.900 héc ta ruộng lúa nước đang canh tác. Số sân golf được cấp phép trong hai năm sau khi gia nhập WTO đã tăng gấp ba lần so với tổng số dự án được cấp phép trong 14 năm trước đó cộng lại.
Số khu công nghiệp (KCN) cũng tăng vọt trong hai năm sau khi gia nhập WTO, từ 82 KCN với tổng diện tích đất là 15.800 héc ta, trong đó diện tích có thể cho thuê là 11.000 héc ta, đến cuối năm 2008, đã có 219 KCN với tổng diện tích đất là 61.472 héc ta trên 54 tỉnh, thành phố, với 40.000 héc ta có thể cho thuê.
![]() |
Theo Luật Ngân sách hiện hành, thu nhập của địa phương từ đất trồng lúa rất thấp, trong khi thu nhập từ các sân golf, các dự án bất động sản cao hơn nhiều lần. Điều đó có thể giải thích động lực của các tỉnh trong việc chấp nhận sân golf, khu công nghiệp một cách nhanh chóng như vậy.
Bộ trưởng Bộ Tài Nguyên - Môi trường Phạm Khôi Nguyên cho biết hôm 21-10-2009, trong bốn năm bộ chỉ cấp phép khai thác 400 mỏ, trong khi các tỉnh cấp phép khai thác hơn 4.000 mỏ. Trên thực tế, đa số các mỏ nhỏ thường sử dụng công nghệ khai thác thô sơ, rất lãng phí tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường.
Đánh giá về năng lực cạnh tranh
Tuy nhiên, những sự bùng nổ được nêu ở trên không đi kèm với sự tiến bộ về môi trường kinh doanh. VCCI và VNCI, được USAID tài trợ, đã công bố báo cáo Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2008 với nhiều kết quả rất đáng được quan tâm.
Điểm số của PCI đã giảm đi chứ không tăng lên: Đà Nẵng đã từ vị trí thứ hai lên thứ nhất với 72,18 điểm, so với điểm cao nhất năm 2007 của Bình Dương là 77,2 và trong năm 2006 là 77,61, điểm trung bình cũng giảm 2,4 điểm từ 55,56 xuống 53,17 điểm và điểm thấp nhất đã giảm từ 37,96 xuống 36,39.
Đây là dấu hiệu rõ ràng nhất cho thấy trong năm đầu tiên gia nhập WTO doanh nghiệp chưa nhận thấy có sự đột phá thật sự về cải cách, và thay vì tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh thể hiện qua điểm số tăng lên thì điểm số đã giảm đi. Điều này chứng tỏ môi trường kinh doanh ở Việt Nam nói chung chậm được cải thiện và năm 2008 có một số mặt kém hơn năm trước.
Có một số cải thiện nhất định được ghi nhận về tính năng động của cấp tỉnh (+12,25%), tính minh bạch (+8,4%), chủ yếu là do phát hành công báo ở cấp tỉnh, thiết chế pháp lý tăng 7,62% do doanh nghiệp đã tìm đến tòa kinh tế nhiều hơn, tiếp cận đất đai, chi phí gia nhập thị trường có một số cải thiện nhất định, song chi phí không chính thức chỉ cải thiện 1% và vẫn ở mức cao.
Điều đáng chú ý là đã xuất hiện những thụt lùi đáng kể về ba chỉ số là chi phí thời gian trong kinh doanh đã tăng lên 13,3%, khó khăn về đào tạo lao động tăng thêm 15,3% và chính sách phát triển kinh tế tư nhân đã thụt lùi 20,87%. Việc gia tăng quá mạnh mẽ số lượng các trường đại học và cao đẳng trong thời gian này đã không đem lại bất kỳ tiến bộ nào trong đào tạo lực lượng lao động. Các doanh nghiệp nước ngoài cũng phản ánh tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng lực lượng lao động có tay nghề.
![]() |
Điều này cũng phù hợp với những phát hiện của các điều tra khác như thủ tục đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp thông thoáng nhưng theo các luật khác có liên quan như Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Xây dựng... còn mất rất nhiều công sức và thời gian. Bước thụt lùi trong chính sách đối với kinh tế tư nhân cũng được xác nhận từ các điều tra khác như khó khăn tiếp cận tín dụng, đất đai, dự án đầu tư...
Điều đáng chú ý khác là số các tỉnh thuộc nhóm thấp đã tăng thêm hai, lên sáu tỉnh, trong đó đáng chú ý là vị trí đứng thứ ba từ dưới lên của Bạc Liêu trong khi Cà Mau đã vươn lên vị trí tốt và Vĩnh Long vẫn được xếp thứ tư trong bảng xếp hạng.
Nhờ có chính sách phân cấp mạnh mẽ, các tỉnh, thành phố đã năng động hơn, chủ động hơn trong điều hành kinh tế, thu hút đầu tư, khai thác các nguồn tài nguyên chủ yếu theo chiều rộng. Tuy nhiên, các biến chuyển đó chưa nâng cao năng lực cạnh tranh, chưa cải thiện chất lượng lao động. Ngược lại, về lâu dài, các ưu thế về quy hoạch, chuyên môn hóa, các cân đối về kết cấu hạ tầng và vấn đề môi trường đang đặt ra những vấn đề cấp bách cần giải quyết.
Nguồn: TBKTSG
