
Tin tức
Nên ứng xử tỉnh táo (07/12)
06/08/2010 - 25 Lượt xem
Biến đổi khí hậu làm cho các yếu tố của thời tiết như nắng, mưa, gió và nhiệt độ không khí xảy ra thất thường. Nắng kéo dài dễ gây ra hạn hán và làm cháy rừng; mưa nhiều làm sạt lở đất và ngập lụt; gió mạnh làm xuất hiện triều cường và bão tố; nhiệt độ không khí giảm đột ngột sẽ làm tuyết rơi và mưa đá. Những hiện tượng như thế, gọi chung là thiên tai. Vì vậy, BĐKH làm cho thiên tai xảy ra với tần suất nhiều hơn, cường độ mãnh liệt hơn và thời gian khó dự đoán hơn.
Mặt khác, do bầu khí quyển tích lũy ngày càng nhiều khí thải như CO2, CH4 và N2O nên chúng hấp thu năng lượng bức xạ mặt trời nhiều hơn và do đó làm cho nhiệt độ của không khí có xu hướng tăng lên. Khi nhiệt độ bầu khí quyển tăng lên sẽ làm băng giá của hai cực trái đất tan rã và kết hợp với sự giãn nở lớp nước biển của các đại dương làm cho mực nước biển dâng cao.
Theo đánh giá của Ủy ban Liên Chính phủ (IPCC) năm 2007, trong suốt thế kỷ 20 nhiệt độ trung bình của bầu khí quyển tăng 0,74 độ C, nhưng từ nay đến năm 2030 nhiệt độ trung bình có thể tăng thêm 0,4 độ C. Hay như mực nước biển chỉ tăng 1,7 mi li mét trong suốt thế kỷ 20, nhưng từ năm 1993-2003 đã tăng 3,1 mi li mét. Từ những số liệu này, báo cáo trên dự đoán mực nước biển sẽ dâng cao khoảng một mét trong thế kỷ 21 và cảnh báo đồng bằng sông Cửu Long là một trong ba nơi sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất.
Thích nghi với BĐKH: sự chủ động ở người dân
Việc thích nghi với BĐKH là cách ứng xử với thiên tai. Thiên tai có chung đặc điểm là xuất hiện nhanh, mức độ tàn phá lớn và rất khó dự đoán chính xác. Không ai có thể dự đoán là năm 2010 Việt Nam sẽ bị bao nhiêu cơn bão! Do đó, biện pháp phòng tránh và thích nghi của từng người dân tỏ ra có hiệu quả hơn.
Đó là việc từng chủ tàu đánh bắt xa bờ cần trang bị dụng cụ vô tuyến và thường xuyên liên lạc với đất liền, để biết khi nào có bão, hướng bão di chuyển... để đưa tàu thuyền tránh xa vùng bão. Đó cũng là việc nông dân làm lúa phải dự trữ một lượng lúa giống nhiều hơn trước đây, đựng trong các đồ chứa làm bằng vật liệu an toàn để khi bão lũ đi qua còn có lúa giống mà gieo lại. Đó còn là việc các bà mẹ phải cho con ngủ mùng để tránh muỗi đốt rồi bị truyền bệnh sốt xuất huyết vì mưa nắng thất thường làm mật độ muỗi tăng lên.
Về lâu dài hơn, ngư dân phải chọn công ăn việc làm khác vào mùa mưa bão nhiều. Nông dân không nên chọn cây trồng tiêu thụ quá nhiều nước để trồng vào mùa nắng. Các bà nội trợ không nên có quá nhiều lu khạp chứa nước mà không có nắp đậy. Mạng lưới y tế cộng đồng cần chủ động tiêm ngừa dịch bệnh cho người dân trước những thời điểm có rủi ro cao.
Tóm lại, đó là những việc xảy ra hàng ngày hiện nay và vì vậy làm cho chúng ta không quan tâm đúng mức. Nhưng một khi thiên tai xảy ra, chính những việc thông thường đó lại là gánh nặng cho công tác khắc phục hậu quả. Ví như sau bão số 9, nông dân miền Trung đang thiếu lúa giống sạ lại và vì vậy mùa lúa sắp đến khó có thể cho năng suất cao!
Ứng phó với nước biển dâng: đòi hỏi quy hoạch ở tầm vĩ mô
Trong khi đó, nước biển dâng là một tiến trình có thời gian đủ dài, không xảy ra đột ngột và chúng ta có thể dự đoán nơi nào sẽ bị ảnh hưởng trước tiên. Cụ thể là Bộ Tài nguyên - Môi trường đã công bố các dự đoán (kịch bản) mức độ ngập mặn và cả thiệt hại của đồng bằng sông Cửu Long vào năm 2050 và cả năm 2100! Vì vậy, ứng phó với nước biển dâng thuộc về công tác quy hoạch cho tương lai ở tầm vĩ mô. Ví như việc chuyển đổi ngành nghề và tạo công ăn việc làm cho ngư dân các làng đông dân cư ven biển; đầu tư nâng cấp cho các chủ tàu có năng lực phát triển để đóng mới tàu có trọng tải lớn và trang bị phương tiện vô tuyến hiện đại.
Hiện nay, để ứng phó với nước biển dâng, nhiều địa phương cũng đang bàn đến việc xây dựng các đê biển, kể cả việc bao đê toàn bộ vùng ven biển của Việt Nam. Chỉ nên xây dựng đê biển ở những nơi xung yếu như khu công nghiệp, bến cảng và nơi thường xuyên xảy ra sóng to gió lớn. Phần còn lại nên tập trung trồng lại rừng phòng hộ. Việc trồng lại rừng phòng hộ thì nên dựa vào quá trình tự nhiên, do từ ngàn xưa biển và rừng luôn luôn tranh chấp nhau. Khi biển lùi thì rừng lấn ra biển và khi biển dâng thì rừng lùi vào đất liền. Nhưng hiện nay, bên sau rừng là những đê biển, chúng ngăn chặn đường lùi của rừng ngập mặn. Do đó, nếu nước biển dâng và rừng không còn đường lùi thì rừng sẽ chết, và khi rừng chết rồi thì đê biển cũng sẽ không còn!
Công tác quy hoạch để thích nghi với nước biển dâng cũng nên hạn chế việc đô thị hóa các thành phố ven biển hay vùng trũng sâu. Vì ai cũng biết là việc di dời vài triệu người trong vòng một ngày để tránh bão, lũ đột xuất là điều không thể thực hiện được. Nhưng quan trọng nhất là giúp người dân chuyển dịch cách sử dụng đất hợp lý cho từng vùng sinh thái khác nhau. Ví như vùng mặn nhiều thì không nên tìm cách sản xuất lúa, màu hay tôm sú mà nên thay thế bằng việc nuôi cua, sò, ốc; vùng tranh chấp mặn - ngọt thì phát huy mô hình canh tác lúa - tôm sú hiện nay; vùng thường xuyên hạn hán thì thay thế cây lúa bằng cây trồng cần ít nước tưới; vùng ngập trung bình thì đã có mô hình mương bao xung quanh và canh tác lúa - tôm càng xanh hay cá đồng, mương bao giữ nước để tưới bổ sung cho lúa nếu có xảy ra hạn hán bất thường; vùng ngập sâu thì canh tác lúa vào mùa nắng và nuôi tôm càng xanh hay cá tra đăng quầng vào mùa mưa, hạn chế tối đa việc đắp đê, xây đập làm cản trở dòng chảy của các sông rạch.
Chúng ta biết rằng các công trình tốn kém chỉ có hiệu quả khi nó bảo vệ được con người, không phải chỉ một thế hệ mà là nhiều thế hệ. Vì vậy, nếu chúng ta bảo vệ được mình nhưng dồn hết rủi ro cho con cháu mai sau thì chúng ta xây dựng các công trình kiên cố để làm gì?
Nguồn: TBKTSG
