Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Chung sống với quy luật thị trường (11/12)

06/08/2010 - 27 Lượt xem

Động thái này ngược lại với những gì đã cam kết trước đó (của Chính phủ và NHNN) về việc tiếp tục giữ vững ổn định tỷ giá và lãi suất cơ bản ít nhất là cho đến hết năm 2009 với mong muốn kéo dài thêm các biện pháp kích thích nhằm giảm sốc, hỗ trợ chống suy thoái và duy trì tăng trưởng. Thông qua các quyết định này, có lẽ NHNN muốn tái khẳng định sự cần thiết phải tôn trọng và hành xử phù hợp với quy luật thị trường khách quan, hướng đến sử dụng các công cụ điều hành mang tính thị trường nhiều hơn là cố gắng áp đặt kiểu mệnh lệnh hành chính?

Điều kiện cần để giải quyết những mâu thuẫn của nền kinh tế

Trên thực tế, trước sức ép thị trường và sự vận động tất yếu của các quy luật tiền tệ, sẽ không có lựa chọn nào tốt hơn ngoài việc phải chấp nhận tự điều chỉnh thích nghi với diễn biến thời cuộc. Quyết sách lần này của NHNN không chỉ nhằm mục đích hóa giải phần lớn những mâu thuẫn đang phát sinh trong nền kinh tế do “tác động ngược” từ chủ trương triển khai hàng loạt biện pháp kích thích kinh tế thời gian vừa qua, mà còn nâng cao hơn tính chủ động, lường đón và đương đầu với những diễn biến phức tạp cũng như các nguy cơ bất ổn tiềm tàng trên thị trường tài chính quốc tế. Trong đó nổi cộm lên một số vấn đề lớn đáng quan tâm: (1) Do tác động của chủ trương kích cầu đầu tư, hỗ trợ lãi suất, quy mô đầu tư tín dụng đang tăng nhanh hơn tốc độ huy động vốn, dẫn đến cung cầu vốn mất cân đối lớn, làm tái diễn tình trạng nhiều ngân hàng chạy đua tăng lãi suất tiền gửi ở mức kịch trần do NHNN ấn định; (2) Tín dụng tăng, nhập siêu cao, các nguồn thu ngoại tệ chính thống vừa suy giảm vừa bị găm giữ, khiến áp lực dồn lên tỷ giá ngày càng lớn, chênh lệch giữa tỷ giá niêm yết với tỷ giá ngoài thị trường ngày càng lớn, năng lực cung ứng ngoại tệ thông qua hệ thống ngân hàng thường xuyên lâm vào cảnh thiếu hụt; (3) Công cụ lãi suất cơ bản bắt đầu bộc lộ dấu hiệu bất lực, xơ cứng một khi NHNN gắng sức vận dụng công cụ này vào việc điều hành cung cầu thị trường vốn; và (4) Kinh tế thế giới phục hồi chậm, đồng đô la Mỹ suy yếu kéo dài, giá vàng lên và đang khuynh đảo thị trường dữ dội… đã và đang tạo ra những sức ép liên tục, kể cả bất ngờ, đối với năng lực điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu.

Suy cho cùng, mọi bài toán vĩ mô trong cơ chế thị trường đều phải xoay quanh việc xử lý hài hòa các mối quan hệ cung cầu, thông qua duy trì tính ổn định của các cân đối kinh tế chủ chốt. Trước mắt, việc điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản, kết hợp với điều chỉnh mạnh tỷ giá, sẽ có tác động tích cực mang tính tổng hợp đối với cung cầu vốn, tạo ra dư địa linh hoạt hơn để hệ thống ngân hàng tăng năng lực đáp ứng những tín hiệu đa dạng phát đi từ thị trường, khả năng huy động vốn sẽ tăng lên, góp phần giải tỏa bớt tình trạng căng thẳng, đồng thời nhắn gởi đến cộng đồng doanh nghiệp những khuyến cáo có ích trong việc cân nhắc thận trọng hơn khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.

Điều kiện đủ: giải pháp phải đồng bộ

Để tối ưu hóa hiệu quả của đợt điều chỉnh lãi suất và tỷ giá lần này thì cần phải xem xét một số giải pháp đồng bộ khác kèm theo, cụ thể là:

- Có lộ trình thích hợp nhằm giảm dần đi đến sớm chấm dứt các gói kích thích kinh tế thông qua nới lỏng tài khóa và tiền tệ, trước hết là gói hỗ trợ lãi suất ngắn hạn. Chỉ kéo dài hỗ trợ thêm đối với một số ít lĩnh vực thực sự cần thiết có liên quan trực tiếp đến ổn định an sinh xã hội trên diện rộng như phát triển nông nghiệp - nông thôn, tạo việc làm, xuất khẩu sản phẩm chế biến, có giá trị gia tăng (trừ xuất khẩu tài nguyên).

- Xem xét bãi bỏ “cơ chế hai giá” theo kiểu vừa “neo trần” vừa thỏa thuận trong lãi suất cho vay hiện hành, đi đôi với nghiên cứu áp dụng biên độ điều hành hoặc nới rộng thêm mức lãi suất cơ bản, qua đó tạo môi trường chín muồi để sớm quay trở lại cơ chế lãi suất thỏa thuận như trước năm 2008. Thực tế vận dụng cơ chế hai giá thời gian qua có khá nhiều bất cập, nhiều ngân hàng tùy tiện áp đặt lãi suất cho vay quá cao, áp dụng cho vay với nhiều đối tượng “ngoài luồng” mà bản thân NHNN không có khả năng kiểm soát nổi. Ngoài ra đây còn là “liều thuốc kích thích” các đợt chạy đua huy động với lãi suất cao đột biến. Cũng cần lưu ý một thực tế là cường độ chạy đua lãi suất thường tỷ lệ nghịch với quy mô và mức độ chuyên nghiệp ở mỗi ngân hàng, hậu quả là nguồn vốn không tăng thêm nhưng lại gia tăng hiện tượng đảo vốn và gánh nặng áp lực chi phí.

- Áp dụng biện pháp kiểm soát thanh khoản và tỷ lệ an toàn vốn một cách nghiêm ngặt theo luật định. Có cơ chế giám sát cảnh báo thường xuyên thông qua hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, những ngân hàng bị đưa vào diện “cảnh báo sớm” về thanh khoản và an toàn vốn buộc phải áp đặt chế tài đặc biệt để kiểm soát hoạt động tín dụng và huy động vốn. Cần thừa nhận thực tế rằng, hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay về cơ bản vẫn đang phát triển theo chiều rộng hơn là chiều sâu, tính công khai minh bạch, tính chuyên nghiệp vẫn còn thiếu và yếu, năng lực cạnh tranh và hội nhập chưa cao. Chính vì vậy, việc áp dụng các công cụ điều hành mang tính thị trường nhiều khi không phát huy hết hiệu quả, buộc phải lạm dụng các biện pháp hành chính. Một ví dụ là, hiện nay mặc dù đã điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản, nhưng NHNN vẫn tiếp tục duy trì hình thức khuyến cáo hệ thống ngân hàng thương mại không được huy động lãi suất vượt quá 10,5%/năm, một biện pháp xem ra vẫn còn mang nặng dấu ấn quyền lực hành chính, thể hiện sự lúng túng trong điều hành, nếu không muốn nói là chưa đúng luật và không phù hợp với quy luật cạnh tranh thị trường. Hoặc mỗi khi NHNN muốn kiểm soát tăng trưởng tín dụng nhưng lại không sử dụng các công cụ điều hành gián tiếp mà lại thiên về ấn định trực tiếp một tỷ lệ cứng nhắc, vừa rắc rối trong quản lý sự vụ, vừa phải thường xuyên điều chỉnh. Thực tế này đặt ra cho Chính phủ và NHNN một nhiệm vụ quan trọng đó là cần sớm tiến hành một cuộc khảo sát đánh giá toàn diện quá trình phát triển mô hình hệ thống tài chính - ngân hàng thời gian vừa qua, sự phát triển đó có thực sự gắn liền với mục tiêu nâng cao tiện ích, chất lượng dịch vụ ngân hàng hiện đại, hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, củng cố hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ hay không, từ đó đề ra chiến lược cải tổ cho phù hợp.

- Trong quá trình xử lý quan hệ cung cầu ngoại tệ, nên kết hợp chặt chẽ, đồng bộ, có hiệu lực giữa chính sách tiền tệ - tỷ giá với chính sách quản lý xuất nhập khẩu, chính sách quản lý kinh tế - tài chính khác, nhất là trong tài chính vi mô. Làm sao để từng doanh nghiệp, từng ngành kinh tế đều phải nhận thức được mối quan hệ lợi ích song hành giữa hiệu quả kinh doanh của chính mình gắn với lợi ích vĩ mô toàn cục.

Một câu hỏi khá hóc búa đặt ra, tại sao NHNN với quyền lực chính sách trong tay, điều hành cả một hệ thống ngân hàng thương mại, lại phải thường xuyên bị động khi đối phó trước sức ép tỷ giá “phập phù” do một bộ phận nhỏ thị trường phi chính thức chi phối? Lý giải như thế nào về việc NHNN thường công bố tỷ giá định hướng thấp hơn thị trường tự do chứ không phải là cao hơn? Qua đây cũng cho thấy rõ hơn sự cấp bách phải nâng cao hơn nữa vị thế độc lập của ngân hàng trung ương trong điều hành chính sách tiền tệ.

Nguồn: TBKTSG