Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Nhìn từ bảng xếp hạng VNR 500: Phá thế "chân kiềng" (15/12)

06/08/2010 - 23 Lượt xem

Không những thế, nếu nhìn ở góc độ giá trị, tỷ trọng cũng đang ngày càng chuyển dịch nhanh về phía công nghiệp- xây dựng (gọi chung là công nghiệp). Một lần nữa, cơ cấu này chứng tỏ thế “chân kiềng” nông lâm nghiệp- công nghiệp- dịch vụ của cơ cấu nền kinh tế đang mất dần vai trò.

Công nghiệp vươn mình.

Cơ cấu kinh tế phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp lớn thường đạt trình độ phát triển cao. Ở đó, năng suất lao động xã hội và thu nhập bình quân đầu người cao hơn nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp thấp.

Xuất phát điểm của Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp. Không những thế, lại là một nền nông nghiệp lạc hậu, manh mún với giá trị sản lượng thấp. Do đó, sự chuyển dịch tỷ trọng nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ là tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế.

Sự chuyển dịch này có thể lấy cột mốc từ năm 1986, tức thời điểm Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn đổi mới. Thời kỳ này chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, mà trong đó, tiêu biểu là công nghiệp. Tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2% năm 1995; 24,5% năm 2000; 20,9% năm 2005, và đến năm 2008 còn 20,6%. Trong khi đó, tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%; năm 1995 tăng lên 28,8%; năm 2000: 36,7%; năm 2005: 41% và đến năm 2008 tăng đến 41,6%. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%; năm 1995: 44,0%; năm 2000: 38,7%; năm 2005: 38,1%; năm 2008 khoảng 38,7%.

Trong cơ cấu các ngành công nghiệp, ngành công nghiệp khai thác có trị số cao nhất (62,9%), tiếp theo đến ngành điện nước (43,16%), sản xuất vật liệu xây dựng (32,62%). Ngành công nghiệp điện tử và CNTT có trị số tỷ lệ này thấp nhất (13,81%) do chủ yếu là lắp ráp giản đơn. Ngành luyện kim chủ yếu là gia công phôi, nên tỷ lệ này cũng rất thấp (14,18%).

Tăng tốc trong nguy cơ

Muốn trở thành một nền kinh tế công nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp phải giảm xuống dưới 20% GDP, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ mỗi ngành phải tăng lên mức trên dưới 40%. Các nền kinh tế công nghiệp hóa cao thì tỷ trọng nông nghiệp phải giảm dưới 10%, trong nhiều trường hợp là dưới 5%. Ở góc độ cơ cấu, công nghiệp Việt Nam có thể coi là “đạt chỉ tiêu”, bắt đầu bước vào giai đoạn đầu của một nền kinh tế công nghiệp. Tuy nhiên, ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng yếu tố hiện đại trong toàn ngành chưa được quan tâm đúng mức. Đặc biệt, trình độ kỹ thuật công nghệ nhìn chung, vẫn ở mức trung bình. Công nghiệp chế biến, đặc biệt là những ngành công nghệ cao chưa phát triển. Do đó, dù phát triển mạnh mẽ về bề rộng nhưng giá trị lại không tăng trưởng tương ứng.

Nhìn vào cơ cấu các ngành công nghiệp, có thể thấy, đang tiềm ẩn những nguy cơ. Việt Nam đã và đang tiếp nhận quá nhiều công nghiệp có giá trị thấp, làm tiêu tốn nhiều tài nguyên (đất đai, khoáng sản, nước...), đặc biệt là năng lượng (như luyện, cán thép, xi măng...). Hơn nữa, giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp đều thấp, ít chuyển giao công nghệ, thu hút ít lao động, lại chủ yếu là lao động phổ thông. Việc tiếp nhận dòng đầu tư công nghiệp đối với các nhóm ngành này không những chỉ gây giảm giá trị trước mắt, mà còn là nguy hại cho sự phát triển bền vững trong dài hạn...
Năm 2010, công nghiệp Việt Nam đặt chỉ tiêu phấn đấu tỷ trọng công nghiệp chiếm 43-44% GDP cả nước. Với tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng và mạnh mẽ như giai đoạn hiện tại, mục tiêu này hoàn toàn có thể đạt được. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi không chỉ nằm ở khả năng phát triển bề rộng.

Khai khoáng là ngành công nghiệp có đóng góp lớn nhất trong tỷ trọng GDP. Tuy nhiên, phát triển ngành này sẽ nhanh chóng khiến tài nguyên của đất nước cạn kiệt. Hai ngành có giá trị xuất khẩu cao là dệt may (kim ngạch xuất khẩu mục tiêu trong năm 2010 khoảng 10 tỷ USD) và ngành ngành da giầy (mục tiêu kim ngạch xuất khẩu năm 2010 sẽ đạt 6,5 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 11% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp), tốc độ gia tăng về mặt giá trị khá nhanh nhưng đây lại là hai mặt hàng Việt Nam vẫn chủ yếu là gia công cho thị trường nước ngoài. Tình trạng này dẫn tới giá trị gia tăng thấp. Không những thế, việc nhập khẩu nguyên liệu của hai ngành này còn tạo sức ép lên tình trạng nhập siêu.v.v…

Mặt khác, sự tăng tốc của cơ cấu công nghiệp trong tỷ trọng GDP còn là một nguyên nhân lớn khiến chỉ số ICOR của Việt Nam năm 2009 tăng lên mức kỷ lục (bỏ 8 đồng đầu tư đổi lấy 1 đồng tăng trưởng). Trong khi với những nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, theo khuyến cáo của các định chế tài chính có uy tín như Ngân hàng Thế giới, ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. Điều đó có nghĩa, chúng ta đang tăng trưởng không dựa trên yếu tố công nghệ. Để trở thành một nền kinh tế công nghiệp chiếm vai trò chủ đạo, việc chuyển dịch cơ cấu nghiêng dần về phía công nghiệp là tất yếu. Tuy nhiên, việc này sẽ không mang nhiều ý nghĩa nếu như chúng ta vẫn tiếp tục duy trì tình trạng giá trị thặng dư trong sản xuất công nghiệp ở mức thấp.

Nguồn: Vietnamnet, tuanvietnam