Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Kiềm chế nhập siêu và tái cấu trúc nền kinh tế : “Hai trong một” (16/12)

06/08/2010 - 24 Lượt xem

Đó là, tình trạng thiếu đầu tư chiều sâu, một cách phổ biến trong phát triển nhiều ngành kinh tế từ hàng chục năm nay. Do vậy, trong những năm tới, cùng với việc chọn hướng tái cấu trúc nền kinh tế đúng, “căn bệnh mãn tính” cũng tự khắc lui.

Nhìn tổng quát, đó là việc phát triển các ngành công nghiệp phù trợ tương thích với công nghiệp thành phẩm và đây chắc chắn cũng là một hướng đi trong việc tái cấu trúc nền kinh tế mà chúng ta không thể không theo đuổi trong những năm tới.

“Căn bệnh mãn tính” nhập siêu

Trước hết, không thể phủ nhận một thực tế là căn bệnh nhập siêu của nền kinh tế nước ta đã kéo dài từ nhiều thập kỷ nay. Trong đó, nếu như những năm 90 trở về trước chúng ta có thể đổ lỗi cho “thời bao cấp” dẫn đến tình trạng “xuất một nhập hai”, thậm chí tỷ lệ này còn cao hơn, nhưng từ năm 1990 trở lại đây, khi đã phải “tự đứng trên đôi chân của mình” thì nhập siêu vẫn còn rất trầm trọng. Hơn thế, nếu như những năm 90 của thế kỷ trước là giai đoạn mới phát triển kinh tế thị trường, chúng ta còn phải đối mặt với vô vàn khó khăn và các hoạt động xuất, NK còn mang nặng tính tự phát, cho nên nhập siêu còn lớn có thể coi là một hiện tượng bình thường, nhưng bước sang thập kỷ này, với một chiến lược xuất, NK đã được xây dựng có bài bản, tức là hoạt động xuất, NK đã chuyển sang giai đoạn phát triển tự giác, nhưng nhập siêu vẫn không có chuyển biến gì đáng kể, thậm chí còn nghiêm trọng hơn.

Các số liệu thống kê của nước ta cho thấy, nếu như tổng kim ngạch nhập siêu chỉ tính riêng trong thương mại hàng hoá trong thập kỷ 90 chỉ mới là 15,417 tỷ USD, còn tỷ lệ nhập siêu bình quân lên tới 22,35%, thì trong tám năm đầu của thập kỷ này tổng kim ngạch nhập siêu đã lên tới con số khổng lồ 56,347 tỷ USD, tức là lớn gấp 3,65 lần so với thập kỷ trước, cho nên tỷ lệ nhập siêu tuy đã giảm bớt, nhưng cũng vẫn còn “ngự” trên ngưỡng 20% (21,52%).

Không những vậy, nếu chỉ xét riêng ba năm 2006 - 2008, trong đó có hai năm nước ta đã trở thành thành viên WTO”, cho nên nói như quan chức Trưởng đoàn đàm phán gia nhập WTO trước đây, gia nhập WTO có nghĩa là chúng ta sẽ có “cả thị trường thế giới để phát triển”, thì nhập siêu còn trầm trọng hơn nhiều. Bởi lẽ, nếu như kim ngạch nhập siêu năm 2006 là 5,065 tỷ USD, tỷ lệ 12,72%, nhưng năm 2008, tỷ lệ nhập siêu vẫn ở mức cao ngất ngưởng 28,76%.

Còn trong năm nay, tuy hoạt động xuất, NK đã “rẽ” sang một hướng khác, nhưng với ước kim ngạch XK 51,306 tỷ USD trong 11 tháng, còn kim ngạch NK ước vẫn đạt 61,723 tỷ USD, cho nên kim ngạch nhập siêu 10,417 tỷ USD và tỷ lệ nhập siêu vẫn đạt 20,30%.

Như vậy, có lẽ không “ngoa” một chút nào khi nói rằng, nhập siêu không khác gì một “con ngựa bất kham” và các mục tiêu chuyển sang xuất siêu trong năm nay, hoặc vào năm tới mà các nhà hoạch định chiến lược xuất, NK của nước ta đã hướng tới chắc chắn khó trở thành hiện thực.  

Bề nổi của tảng băng

Trước hết, không thể phủ nhận một nguyên nhân khách quan là việc nhập siêu cả về kim ngạch tuyệt đối lẫn tỷ lệ nói trên là do giá thế giới làm “khuếch đại” lên, cho nên đây là điều chúng ta buộc phải chấp nhận khi hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới.

Các số liệu thống kê của IMF cho thấy, nếu như giá nguyên liệu thế giới trong giai đoạn 1999-2003 chỉ tăng bình quân 6,83%/năm, thì trong giai đoạn 2004-2008 nhịp độ này tăng vọt lên 21,50%/năm, tức là tăng cao gấp 3,15 lần. Trong đó, nếu như mức tăng này năm 2004 là 23,85%; thì năm 2008 đạt kỷ lục 27,48%.

Nếu như các ngành, chí ít là những ngành sản xuất vừa sức đối với chúng ta được đầu tư để khép kín quá trình sản xuất từ nguyên liệu ban đầu đến thành phẩm, thì chắc chắn chúng ta không chỉ hạn chế được tình trạng nhập siêu mà nhịp độ phát triển kinh tế chắc chắn sẽ cao hơn nhiều.

Hiển nhiên, trong điều kiện của một nền kinh tế có độ mở đầu ra XK lên tới 71,05% so với GDP, còn ở đầu vào NK lên tới 91,48% (năm 2008) như nước ta, giá nguyên liệu càng sốt nóng đồng nghĩa với quy mô NK sốt nóng vào nền kinh tế càng lớn và thực tế này không chỉ làm cho quy mô NK và XK bị “khuếch đại” lên tương ứng, mà còn dẫn đến tỷ lệ lạm phát cũng tăng mạnh.

Trong đó, một điều rất đáng lưu ý là, trong khi tỷ lệ hàng tinh chế XK của nước ta đã có những tiến bộ đáng kể trong những năm qua, và mặt khác, do kim ngạch XK thấp hơn nhiều so với kim ngạch NK, cho nên tác dụng “khuếch đại” của sốt nóng giá nguyên liệu thế giới đối với đầu ra XK nhỏ hơn nhiều so với đầu vào NK.

Các số liệu thống kê của nước ta trong 18 năm qua cho thấy, ở đầu ra XK, trong khi tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản giảm từ 25,67% xuống còn 18,87%, và ngược lại, của ba nhóm hàng ít bị ảnh hưởng hơn là công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; hàng nông lâm sản và hàng thủy sản tăng từ 74,25% lên 81,26%, còn tính theo các số liệu thống kê theo thông lệ thế giới thì tỷ lệ hàng thô và sơ chế giảm từ mạnh từ 67,24% (năm 1995) xuống còn 46,60%, và ngược lại, của nhóm hàng tinh chế tăng từ 32,75% lên 53,33%, thì ở đầu vào NK tình hình lại diễn biến theo chiều hướng ngược lại.

Đó là, nếu như nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu năm 1990 cũng đã chiếm tỷ trọng rất cao là 57,75%, thì năm 2008 đã vươn lên chiếm 64,32% và tỷ trọng này trong 5 năm giá nguyên liệu thế giới sốt nóng liên tục dao động trong khoảng từ 64,18% đến 67,59%.

Trong khi đó, tỷ trọng của nhóm hàng tiêu dùng từ khoảng 13,91% - 17,80% trong giai đoạn 1990 - 1995 đã bị “ép” rất mạnh xuống chỉ còn khoảng 6,19 - 8,48% trong giai đoạn 1998 - 2007, còn năm 2008 tuy đã được “nới ra” rất nhiều, nhưng cũng chỉ là 13,80%.

Hơn thế, một điều đáng lưu ý đặc biệt là, do nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu liên tục “nở ra” quá lớn như vậy, cho nên tỷ trọng của nhóm hàng máy móc, thiết bị và dụng cụ, phụ tùng trong “rổ hàng hoá NK” đã từ 27,36% năm 1990 “co lại” 21,87% năm 2008.

Đây rõ ràng là những “nghịch cảnh” trong NK của nền kinh tế nước ta, bởi trên lý thuyết, nhập siêu là tất yếu đối với những nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng tốc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật như nước ta chủ yếu là do tăng tốc NK nhóm hàng máy móc, thiết bị và dụng cụ, phụ tùng.

Không những vậy, cho dù là một bức tranh không “đẹp”, nhưng ẩn phía sau còn là những điều đáng ngại mà các số liệu thống kê này không thể thể hiện được. Đó là, để tăng nhanh năng lực cạnh tranh của DN và quốc gia trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới, nhưng NK công nghệ nguồn từ các trung tâm kinh tế thế giới là Nhật Bản, Mỹ và Châu Âu nói chung vẫn còn là vấn đề còn xa lạ đối với không ít các DN nước ta. Việc ngành công nghiệp đường cho dù được “sinh sau đẻ muộn” như của nước ta, nhưng đã có cả những “hàng thải” được khuân về, hay “phong trào” xây dựng đồng loạt các nhà máy xi măng lò đứng trước đó không lâu đủ cho thấy điều đó.

Tuy chỉ là đôi nét phác họa, nhưng bức tranh NK đó cũng đủ để cho phép suy đoán rằng, nhập siêu vẫn sẽ là vấn đề còn phát sinh dài dài đối với nền kinh tế nước ta.

 
Nếu nhìn vào ngành công nghiệp dệt may, một ngành được coi “mũi nhọn” và ngành công nghiệp da giày cũng rất mạnh trong XK của nước ta trong không ít năm nữa thì càng có thể thấy rõ hơn triển vọng đó. Các số liệu thống kê của nước ta cho thấy, nếu như trong năm 2004 hai ngành này đạt kim ngạch XK 7,077 tỷ USD, thì kim ngạch NK chỉ riêng 4 mặt hàng bông, sợi, vải và nguyên phụ liệu đã lên tới 4,708 tỷ USD, bằng 66,53% kim ngạch XK, còn bộ ba số liệu này năm 2008 là 8,055 tỷ USD; 13,888 tỷ USD và 58,00.

Như vậy, cho dù đây là những mặt hàng XK tuy “vỏ” là “Made in Vietnam”, nhưng thực chất “ruột” chủ yếu là ASEAN + 3, bởi NK các nguyên phụ liệu và các sản phẩm trung gian của nước ta chủ yếu chính là từ khu vực này.  Còn trong 11 tháng đầu năm nay, cho dù đã có những nỗ lực đáng kể trong việc tăng phần “ruột Made in Vietnam”, nhưng tỷ lệ này vẫn còn là 56,45%, do kim ngạch NK bốn mặt hàng này vẫn lên tới 6,633 tỷ USD, trong khi kim ngạch XK hàng dệt may và giày dép cũng đã đạt con số rất đáng mừng 11,75 tỷ USD, trong đó riêng hàng dệt may đạt 8,178 tỷ USD, gần bằng cùng kỳ năm 2008.

Nguyên nhân của những nguyên nhân 

Rõ ràng, nguyên nhân của tình trạng càng đẩy mạnh XK nền kinh tế càng phụ thuộc nặng nề vào NK là điều có lẽ không ai không biết, nhưng chỉ có điều là không làm, chí ít là làm ít hơn nói. Đó là đầu tư ồ ạt vào các khâu cuối nguồn của hàng loạt quá trình sản xuất, còn khâu đầu nguồn thì “hậu xét”. Xét trên phương diện này, ngành dệt may có lẽ cũng là một thí dụ điển hình. Bởi lẽ, ai cũng biết dệt may là ngành công nghiệp hướng về XK thuộc loại được chú trọng phát triển từ thời còn phe xã hội chủ nghĩa và chúng ta đã sớm nhận ra rằng, đây là ngành có lợi thế để phát triển mạnh. Chính vì vậy, ước mơ “trồng bông, kéo sợi, dệt vải và may mặc XK”, tức là trong đó đã chứa đựng cả những ý tưởng tốt đẹp: kéo cả những người nông dân vào “cuộc chơi” công nghiệp hoá đất nước đã từng không dưới một lần trở thành chương trình phát triển của nước ta.

Tuy nhiên, việc diện tích cây bông vải trong 18 năm qua từng được coi là cây công nghiệp hàng năm đầu bảng của nước ta tuy có lúc trồi, khi sụt, nhưng về cơ bản phát triển theo kiểu cầu vồng và tệ hại hơn là hiện đang ở mức “đáy” chỉ với 5,5 nghìn ha so với 8,3 nghìn ha, năm 2002 đạt mức “đỉnh” cũng chỉ đạt 34,1 nghìn ha, cũng như các con số khổng lồ về NK bốn mặt hàng nguyên liệu đầu vào nói trên đủ cho thấy điều đó.

Tất cả những điều nói trên cho thấy, nếu như các ngành, chí ít là những ngành sản xuất vừa sức đối với chúng ta được đầu tư để khép kín quá trình sản xuất từ nguyên liệu ban đầu đến thành phẩm, thì chắc chắn chúng ta không chỉ hạn chế được tình trạng nhập siêu đã nói ở trên, mà nhịp độ phát triển kinh tế chắc chắn sẽ cao hơn nhiều.

Nguồn: DDDN