Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Công nghiệp phụ trợ: “đứa con không chịu lớn” (22/12)

06/08/2010 - 29 Lượt xem

Ngành điện tử VN gần như trở về mốc khởi điểm sau khi Sony đóng cửa nhà máy tại VN, thay vào đó là làn sóng thành lập các công ty thương mại chuyên nhập khẩu sản phẩm điện tử.

Bản quy hoạch phát triển công nghiệp điện tử VN đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 rất “hoành tráng” với doanh số sản xuất đạt 4-6 tỉ USD, xuất khẩu 3-5 tỉ USD... Nhưng nhận xét về quy hoạch này, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương lại cho rằng đây chỉ là kế hoạch trên giấy bởi hơn hai năm kể từ khi quy hoạch được phê duyệt, không một kế hoạch hay chương trình hành động nào được đưa ra triển khai, còn ngành CNPT VN hiện vẫn đang trong tình trạng manh mún, kém phát triển.

Hơn 10 năm làm được vỏ máy

Theo một chuyên gia trong ngành điện tử, đến thời điểm hiện tại các mục tiêu đề cập nói trên vẫn giậm chân tại chỗ vì một trong những yếu tố khó khăn cơ bản của nền công nghiệp điện tử là thiếu một nền tảng của ngành CNPT cơ bản, điều mà chúng ta không làm được qua suốt thời kỳ bảo hộ mậu dịch trong nước. Bài học rất lớn từ Malaysia, Thái Lan, Indonesia và đặc biệt từ Trung Quốc đã không được áp dụng tốt ở VN, hoặc là đã được áp dụng một cách máy móc và phiến diện.

"Công ty Daihatsu (Nhật) đã từng sang VN tìm kiếm nhà cung cấp ốc vít, nhưng khảo sát tới 64 DN mà không lựa chọn được nhà cung cấp nào đạt tiêu chuẩn quốc tế. Canon cũng phải mất một thời gian dài mới tìm được nhà cung cấp tại Việt Nam, song 90% trong số đó lại là DN có vốn đầu tư nước ngoài"

(Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương)

Giám đốc một doanh nghiệp (DN) chuyên sản xuất mặt hàng tủ lạnh cho hay trong toàn bộ linh kiện để làm ra được tủ lạnh, DN sản xuất trong nước chỉ có thể cung ứng được các sản phẩm như khay đựng đá, chân đế, nắp đậy... chiếm chưa tới 30% giá thành sản phẩm. Trong khi đó, một DN chuyên sản xuất đầu karaoke đã có thương hiệu trong nước khẳng định chắc nịch: “Chỉ đặt sản xuất trong nước được mỗi vỏ máy bên ngoài, còn linh phụ kiện bên trong đều nhập từ Trung Quốc!”.

Ông Trần Quang Hùng, tổng thư ký Hiệp hội DN điện tử VN, thừa nhận hậu quả của việc không có ngành CNPT đã được phơi bày khá ê chề kể từ khi sự kiện Sony ngưng hoạt động sản xuất tại VN. Mất hơn 10 năm nhưng chúng ta chẳng có gì ngoài một công nghệ liên doanh lắp ráp giản đơn.

Theo ông Nguyễn Văn Đạo, phó tổng giám đốc Công ty điện tử Samsung Vina, đặc điểm của ngành CNPT nói chung là đầu tư đường dài trong sản xuất, bao gồm nhà xưởng, thiết bị máy móc. Nhưng sản phẩm của CNPT thường chỉ là những linh kiện, vật tư có giá trị không cao, và như vậy cần phải có một lượng sản xuất (tức đơn đặt hàng) khá lớn và ổn định trong một thời gian dài để có thể thu hồi vốn và tạo ra lợi nhuận. Hình thức này phù hợp với loại hình DN vừa và nhỏ, như mô hình thường thấy ở Đài Loan.

Tuy nhiên ở VN sẽ rất khó đòi hỏi các DN sản xuất linh kiện điện tử trong nước cung ứng hàng rẻ và có chất lượng hơn so với vật tư linh kiện nhập ngoại một khi họ không được giúp đỡ, khuyến khích, hưởng ưu đãi tài chính một cách cụ thể. Với một thị trường nội địa còn nhỏ như VN, không thể có đòi hỏi đó, nhất là khi toàn cầu hóa đang diễn ra. “Không thể cái gì cũng “tự sản, tự tiêu” được.

Trung Quốc có thể làm được điều đó bằng thu hút đầu tư FDI vào ngành CNPT vì thị trường nội địa của Trung Quốc quá lớn. Chính quy mô khổng lồ của thị trường đã giúp Trung Quốc có thể trong một thời gian, tự thu hút và phát triển ngành CNPT song song với các DN công nghệ điện tử khác để tiến tới bước cung ứng cho thị trường toàn cầu”, ông Đạo phân tích.

Quy mô quá nhỏ

Một trong những mục tiêu lớn của TP.HCM khi thu hút Intel vào đầu tư là kích thích phát triển CNPT nội địa, cơ hội càng lớn hơn khi Intel công bố đóng cửa hai nhà máy ở Malaysia và Philippines. Nhưng nay Nhà máy Intel ở Khu công nghệ cao TP.HCM sắp đi vào hoạt động, cả Intel lẫn Jabil (một công ty sản xuất công nghệ cao khác) đều thừa nhận chưa tới 10% nguyên liệu sản xuất được mua từ các DN VN.

Khẳng định chắc chắn rằng chiến lược lâu dài của Intel là phát triển nguồn cung cấp nội địa để giảm chi phí sản xuất, tổng giám đốc Intel Products VN, ông Rick Howarth, cho biết công ty đang nỗ lực tìm kiếm các nhà sản xuất nội địa đạt yêu cầu của Intel thông qua việc tổ chức “ngày nhà cung cấp” để các công ty VN hiểu rõ hơn về nhu cầu của Intel. “Họ phải đáp ứng các yêu cầu như sản xuất số lượng lớn, đúng công nghệ, an toàn, bảo vệ môi trường, chuẩn mực đạo đức kinh doanh...”, ông Rick Howarth khẳng định.

Ngoài chuyện phải có chi phí kinh doanh hợp lý, theo người đứng đầu Intel tại VN, điều quan trọng để trở thành nhà cung cấp cho Intel là công ty phải có khả năng thực hiện hoạt động thương mại điện tử bởi hầu hết giao dịch đều được thực hiện trên Internet. Ngoài ra, theo ông Rick Howarth, Intel cần hàng triệu đơn vị sản phẩm mỗi ngày, vì thế cần những công ty có quy mô đủ lớn nhưng rất khó tìm ra những công ty ở VN có khả năng đáp ứng được yêu cầu như vậy.

Ở VN, Intel có thể tìm ra những công ty có năng lực về kỹ thuật nhưng lại không đủ khả năng về tài chính lâu dài, không đủ cơ sở hạ tầng tự động hóa hay điện tử hóa để thực hiện giao dịch thương mại điện tử.

Cho đến thời điểm này Intel mới chỉ tìm được những nhà cung ứng địa phương trong các lĩnh vực cung cấp thực phẩm, làm vệ sinh phòng ốc, dịch vụ Internet, viễn thông, vận chuyển, đóng gói đơn giản... Trong khi đó, chỉ với những sản phẩm là nguyên liệu gián tiếp, Intel cần hàng trăm mặt hàng.

Đó là các loại nguyên vật liệu đóng gói, bao bì cho các sản phẩm điện tử, vi điện tử, nguyên vật liệu tránh nhiễm từ (EMI), các sản phẩm cách nhiệt, hệ thống kết nối không dây và giải pháp ăngten truyền thông... Với những sản phẩm này cung ứng cho Intel, có công ty hằng năm thu được đến 250 triệu USD.

 

Giá trị gia tăng đi xuống

Sự yếu kém của CNPT những năm qua đã trở thành một trong những nguyên nhân quan trọng nhất khiến tỉ lệ giá trị gia tăng trong giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp nước ta đã và đang có xu hướng giảm.

Kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp (Bộ Công thương) cho thấy tỉ lệ giá trị gia tăng trong giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp năm 1995 đạt 42,5%, đến năm 2000 giảm xuống còn 38,45%, năm 2005 là 29,63% và năm 2007 còn 26,3%.

Điều này được lý giải là do hệ quả của ngành CNPT kém phát triển đã nói ở trên và hàm lượng chất xám thấp trong sản phẩm của Việt Nam.

(Nguồn: Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương)


Nguồn: Tuổi trẻ