
Tin tức
Liệu cơm gắp mắm (04/12)
06/08/2010 - 20 Lượt xem
Tái cơ cấu kinh tế ở Việt Nam được hiểu là dịch chuyển tỷ lệ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, đồng thời dịch chuyển tỷ lệ sở hữu từ Nhà nước sang tư nhân và nước ngoài. Đây là hai khái niệm tái cơ cấu kinh tế phổ biến của các nước đang phát triển và đang chuyển đổi sang kinh tế thị trường.
Tuy nhiên khái niệm tái cơ cấu kinh tế còn có thể hiểu rộng hơn. Ví dụ gia tăng tỷ lệ tiêu dùng cá nhân như trường hợp Trung Quốc, tăng tỷ lệ tiết kiệm tư nhân như trường hợp của Mỹ, hay giảm thâm hụt thương mại như trường hợp của Việt Nam. Bài này đề cập đến vấn đề xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Ở Việt Nam có hai luồng suy nghĩ chính thống: (i) cần áp dụng chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu, nghĩa là bằng mọi cách phải gia tăng kim ngạch xuất khẩu; (ii) Việt Nam là một nước đang phát triển cần phải nhập máy móc thiết bị để đầu tư sản xuất, do đó thâm hụt thương mại là điều có thể chấp nhận được.
Hai quan niệm này không sai, nhưng nếu cùng một lúc Việt Nam vừa phụ thuộc vào xuất khẩu để phát triển vừa phải chịu nhập siêu nặng thì rất có thể đây là dấu hiệu cơ cấu kinh tế Việt Nam bị lệch lạc.
Nên nhớ hầu hết các nước đi theo chính sách tăng trưởng dựa vào xuất khẩu (như Trung Quốc hay các nước Đông Á) đều có thặng dư mậu dịch mặc dù xuất phát điểm họ cũng là những nước kém phát triển phải nhập rất nhiều máy móc thiết bị. Vậy thì sự lệch lạc về mặt cơ cấu kinh tế của Việt Nam nằm ở đâu?
Tạo sân chơi bình đẳng Một bài học quan trọng của Luật Doanh nghiệp là tốc độ tăng trưởng của khu vực tư nhân và nước ngoài phụ thuộc nhiều vào các cơ sở hạ tầng (trong trường hợp này là quy định pháp lý) hơn là cổ phần hóa. Hiện tại khối doanh nghiệp nhà nước có nhiều ưu tiên hơn trong việc tiếp cận các cơ sở hạ tầng cần thiết cho phát triển, ví dụ vay vốn, xin các loại giấy phép, thủ tục, xin cấp/thuê đất... Bởi vậy, để đẩy nhanh quá trình “tái cơ cấu” nền kinh tế, việc tạo một mặt bằng bình đẳng cho các thành phần kinh tế cũng rất quan trọng. Bên cạnh đó, thay vì đầu tư thêm cho khối doanh nghiệp nhà nước, nguồn lực cần được phân bổ vào phát triển cơ sở hạ tầng, cả cứng lẫn mềm. Đây là một chính sách tái cơ cấu quan trọng không kém cổ phần hóa và có tác động quan trọng hơn nhiều so với phong trào dịch chuyển cơ cấu kinh tế sang công nghiệp và dịch vụ. |
Đây là một vấn đề rất phức tạp, đòi hỏi phải có một nghiên cứu bài bản dựa vào số liệu và các mô hình kinh tế. Tuy nhiên, tôi vẫn cứ tạm “võ đoán” một câu trả lời dựa trên cảm nhận cá nhân. Theo tôi, vấn nạn của nền kinh tế Việt Nam là sự chạy theo thành tích tăng trưởng bất chấp thực tế “sức khỏe” của nền kinh tế.
Hàng năm luôn có những mục tiêu tăng trưởng rất cao một cách duy ý chí, không tính đến khả năng của nền kinh tế và hoàn cảnh khách quan. Khả năng ở đây có thể kể đến khả năng hấp thu vốn nước ngoài chảy vào, mức độ phát triển của thị trường tài chính, trình độ của lực lượng lao động, khả năng cung cấp các dịch vụ công của hệ thống hành chính, hay thậm chí khả năng phân tích và hoạch định chính sách kinh tế của những người làm chính sách.
Một nền kinh tế khi chạy đúng khả năng của mình thì tốc độ tăng trưởng kinh tế được gọi là tỷ lệ tự nhiên. Ở các nước phát triển, tỷ lệ này thường được liên hệ với tỷ lệ thất nghiệp và lãi suất, phần nào đó phản ánh mức độ sử dụng lao động và vốn đạt được mức độ tối ưu. Trong điều kiện còn tồn tại các hạn chế năng lực như đã nói ở trên, việc cố gắng thúc đẩy nền kinh tế chạy quá tỷ lệ tự nhiên sẽ gây ra hai hậu quả: giảm năng suất và tăng các mất cân đối. Vấn đề thứ nhất có thể thấy rất rõ qua xu hướng ICOR tăng dần như nhiều người đã chỉ ra.
Một thước đo khác, chính xác hơn, là Total Factor Productivity (TFP), là phần tăng trưởng còn lại sau khi trừ đi đóng góp của vốn và lao động. Tôi không biết có nghiên cứu chính thức nào về TFP của Việt Nam trong những năm gần đây không, tuy nhiên theo một tính toán sơ khởi thì TFP của Việt Nam không tăng, hoặc tăng rất chậm trong 15 năm qua (dao động trong khoảng -1,1% đến 1,4%).
Khi năng suất không tăng hoặc tăng chậm hơn các nước khác, sản phẩm của Việt Nam làm ra sẽ trở nên đắt đỏ hơn khi tính theo đơn vị ngày công lao động (ví dụ để mua một sản phẩm nước ngoài có 1 đơn vị ngày công của họ, người Việt Nam phải mất 11 ngày công thay vì 10 ngày công như trước đây). Như vậy cán cân thương mại của Việt Nam sẽ càng ngày càng bị thâm hụt trừ khi người Việt Nam chấp nhận tăng thêm giờ làm (giảm lương) để bù sự yếu kém về năng suất hoặc tiền đồng bị mất giá so với các đồng tiền khác để bù cho sự lên giá (tính theo lao động). Tuy nhiên, Việt Nam đã cố gắng giữ không để tiền đồng mất giá quá nhanh. Nguyên nhân, theo tôi, cũng là vì mục tiêu tăng trưởng.
Khi một nền kinh tế bị chạy quá tỷ lệ tự nhiên, một hiệu quả khác là nó sẽ bị “nóng”. Trước đây tôi đã đề cập đến hiện tượng kẹt xe ở các thành phố lớn và thiếu điện là những biểu hiện của kinh tế phát triển quá nóng. Bong bóng bất động sản và thâm hụt thương mại cũng vậy, đa số các nước phát triển nóng đều có bong bóng tài sản và thâm hụt thương mại, đây là một trong các mất cân đối của một nền kinh tế. Tuy nhiên đa số các nhà kinh tế đều coi lạm phát là thước đo rõ nhất của mức độ “nóng” trong nền kinh tế. Xét về tiêu chí này, Việt Nam đã phát triển nóng cho đến cuối năm 2008. Để chống lại lạm phát, liều thuốc tiêu chuẩn là giữ lãi suất cao và không để đồng nội tệ mất giá.
Có người sẽ thắc mắc giữ tiền đồng định giá quá cao sẽ đi ngược lại chính sách phát triển dựa vào xuất khẩu. Vấn đề là một phần khá lớn hàng xuất khẩu của Việt Nam là nguyên vật liệu như dầu thô, than, nông sản, thủy sản... được hưởng lợi từ giai đoạn bùng nổ của kinh tế thế giới từ 2001-2007, đặc biệt là nhu cầu của Trung Quốc và các nước mới nổi khác. Những loại hàng hóa chế biến khác của Việt Nam phần lớn là gia công, nghĩa là sự thay đổi của tỷ giá sẽ có ảnh hưởng cả đến đầu vào lẫn đầu ra của sản phẩm.
Do đó, phá giá tiền đồng sẽ không có nhiều tác dụng vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong khi đó, phá giá sẽ làm hàng hóa nhập khẩu tăng giá mạnh, dễ dẫn tới lạm phát cao. Lúc đó Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chỉ còn một cách là tăng lãi suất (thắt chặt tín dụng) như cuối năm 2008 để chống lạm phát mà hệ quả chắc chắn là suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại, nền kinh tế Việt Nam đã bị buộc phải chạy quá sức trong nhiều năm qua để đạt được tốc độ tăng trưởng GDP cao. Giữ giá tiền đồng là một phần trong gói chính sách để đạt mục tiêu này. Tất nhiên không sớm thì muộn kinh tế Việt Nam cũng sẽ phải tái cơ cấu hay tái cân đối để quay về con đường phát triển theo tỷ lệ tự nhiên. Việc NHNN điều chỉnh tiền đồng và nâng lãi suất cơ bản vào tháng trước là một bước đi đúng hướng. Có điều, liệu Việt Nam sẽ có những biện pháp tái cơ cấu mạnh mẽ hơn hay chỉ dừng lại ở những “chính sách có cân nhắc” nhằm giảm áp lực nhất thời?
Tái cơ cấu một cách máy móc Đã có chuyên gia từ Tổng cục Thống kê cảnh báo xu hướng “tái cơ cấu kinh tế” một cách máy móc của các địa phương. Cụ thể là tỉnh nào hiện nay cũng cố gắng giảm tỷ lệ GDP từ nông nghiệp để chuyển sang công nghiệp và dịch vụ, vừa không tận dụng được lợi thế so sánh của địa phương mình, vừa gây ra một cuộc đua phá rào thu hút đầu tư mà hậu quả là tất cả các tỉnh đều thiệt. Trong lý thuyết cân bằng tổng thể, các ngành khác nhau ở các địa phương khác nhau sẽ có tác động khác nhau vào tăng trưởng kinh tế và việc làm với cùng một “liều kích thích”. Sự khác nhau này phụ thuộc vào trình độ công nghệ của ngành sản xuất đó và các mối kết nối trong quá trình sản xuất (gồm cả kinh tế lẫn phi kinh tế, ví dụ vị trí địa lý, thổ nhưỡng, thời tiết, quan hệ bạn hàng, thói quen tiêu dùng...). Bởi vậy, cơ cấu kinh tế tối ưu cho mỗi vùng, theo tiêu chí tăng trưởng và việc làm, không phải lúc nào cũng là công nghiệp và dịch vụ chiếm chủ yếu. Trong bối cảnh Chính phủ/các tỉnh muốn khuyến khích đầu tư hay bỏ tiền ngân sách ra đầu tư thì cần chú trọng vào các ngành có “độ lan tỏa“ cao để đạt hiệu quả đồng vốn cao nhất và có tác dụng tốt nhất lên tăng trưởng và việc làm. |
Nguồn: TBKTSG
