
Tin tức
Mở cửa thị trường bán lẻ: nên minh bạch hơn (18/01)
06/08/2010 - 34 Lượt xem
Tuy nhiên, đến thời điểm này, sau gần một năm mở cửa thị trường bán lẻ hoàn toàn, chỉ có một số tập đoàn bán lẻ nước ngoài có quy mô tương đối lớn hoạt động tại Việt Nam như Metro Cash&Carry (Đức - đăng ký kinh doanh theo hình thức bán buôn nhưng thực chất là bán lẻ), Bourbon (Pháp), Parkson (Malaysia), Lotte (Hàn Quốc)... Các tập đoàn bán lẻ lớn như Wal Mart (Mỹ), Dairy Farm (Singapore), Carrefour (Pháp)... đã từng được xem là các nhà đầu tư tiềm năng nhưng hiện vẫn chưa vào Việt Nam.
Linh hoạt trong mở cửa thị trường bằng ENT
Theo lộ trình tự do hóa thương mại theo cam kết WTO, năm 2009 là thời điểm những hạn chế theo cam kết WTO trong lĩnh vực dịch vụ được dỡ bỏ. Thực tế, Việt Nam đã “mở cửa hoàn toàn” cho các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được tham gia thị trường bán lẻ kể từ ngày 1-1-2009.
Tuy nhiên, việc mở cửa thị trường bán lẻ thông qua việc lập cơ sở bán lẻ thứ hai tại Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vấn đề Kiểm tra nhu cầu kinh tế (Economic Needs Test - ENT) theo cam kết WTO.
Theo Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), ENT được sử dụng trong đàm phán thương mại dịch vụ. Có quan điểm cho rằng, một mặt ENT là công cụ để các nước thành viên mới linh hoạt hơn trong việc áp dụng các chính sách mở cửa thị trường; mặt khác, nó là một dạng rào cản tiếp cận thị trường được xác lập và hoạt động theo điều XVI của GATS.
Theo thống kê của Cơ quan thư ký WTO, đã có trên 90 thành viên trên tổng số 153 thành viên WTO, trong đó có Việt Nam, sử dụng ENT để điều chỉnh các vấn đề thương mại dịch vụ giữa các quốc gia thành viên (trong đó Bulgaria, Canada, EC - 12, Hàn Quốc, Thụy Điển và Việt Nam đã sử dụng ENT trong biểu cam kết về dịch vụ bán buôn và bán lẻ).
Theo điều XVI của GATS, dù ở phạm vi vùng hay trên toàn lãnh thổ, thành viên WTO cũng không được duy trì hoặc ban hành những biện pháp dưới đây, trừ trường hợp có quy định trong danh mục cam kết cụ thể: 1. Giới hạn về số lượng các nhà cung ứng dịch vụ dưới dạng hạn ngạch theo số lượng, độc quyền, cung ứng dịch vụ độc quyền hoặc quy định kiểm tra nhu cầu kinh tế; 2. Hạn chế về tổng giá trị giao dịch dịch vụ hoặc quy định kiểm tra nhu cầu kinh tế; 3. Hạn chế về tổng số hoạt động dịch vụ hoặc số lượng đầu ra dịch vụ thể hiện trên quy định về số đơn vị dưới hình thức hạn ngạch hoặc quy định kiểm tra nhu cầu kinh tế; và 4. Hạn chế tổng số thể nhân có thể được tuyển dụng trong một lĩnh vực dịch vụ cụ thể hoặc nhà cung ứng dịch vụ có thể tuyển dụng; số người cần thiết và liên quan trực tiếp tới việc cung ứng một dịch vụ cụ thể dưới dạng hạn ngạch số lượng hoặc quy định kiểm tra nhu cầu kinh tế.
Với quy định của điều XVI - GATS, các nước thành viên WTO hoàn toàn được trao quyền quy định ENT trong các danh mục cam kết cụ thể và Việt Nam là một trong các trường hợp đó.
Áp dụng ENT - nên minh bạch hơn
Theo Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ của Việt Nam và WTO, ENT được quy định như là một hạn chế trong việc tiếp cận thị trường phân phối - bán lẻ Việt Nam (phần 4 - Dịch vụ phân phối, Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ).
Theo GATS, ENT được xây dựng dựa trên các tiêu chí: 1. Số lượng các nhà bán lẻ hiện diện trên một khu vực địa lý cụ thể; 2. Sự ổn định của thị trường; và 3. Quy mô địa lý của khu vực dân cư. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam còn quy định thêm hai tiêu chí khác là quy hoạch của các tỉnh, thành phố và mật độ dân cư: “Việc thành lập các điểm bán lẻ ngoài điểm bán lẻ đầu tiên sẽ được xem xét theo từng trường hợp cụ thể và phụ thuộc vào số lượng điểm bán lẻ, tính ổn định thị trường, mật độ dân cư tại tỉnh, thành mà điểm bán lẻ sẽ được thiết lập, và tính phù hợp của dự án đầu tư với kế hoạch tổng thể của tỉnh, thành đó” (2).
Như vậy, nếu cho rằng thị trường cần thêm một điểm bán lẻ thì cơ quan cấp phép địa phương sẽ cấp phép cho nhà đầu tư, còn nếu cho rằng chưa cần, cơ quan cấp phép có quyền từ chối cấp phép. Việc cấp phép sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan cấp phép của từng địa phương và từ đó có thể phát sinh tiêu cực.
Dù vẫn tồn tại những tranh luận về ưu thế và hạn chế từ việc tự do cạnh tranh và mở cửa thị trường bán lẻ của Việt Nam cho các doanh nghiệp nước ngoài, nhưng đứng từ góc độ áp dụng pháp luật, Chính phủ Việt Nam cần minh bạch hơn trong các điều kiện áp dụng ENT.
Cho đến nay, sau gần ba năm mở cửa thị trường bán lẻ, Việt Nam vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nào về ENT và cụ thể hóa các tiêu chí để áp dụng ENT trong các văn bản pháp quy, cũng như chưa xác định cụ thể thế nào là điểm bán lẻ, phân định rõ ENT và phân vùng địa lí (zoning), định nghĩa thế nào là người tiêu dùng cuối cùng, đơn vị bán lẻ...
Do đó, để thực sự trở thành điểm đến cho các tập đoàn bán lẻ đa quốc gia, thiết nghĩ Việt Nam cần có quy định hướng dẫn cụ thể và minh bạch về ENT như định nghĩa, phạm vi áp dụng, tiêu chí áp dụng ENT, giải thích cách áp dụng của từng tiêu chí và quy trình, thủ tục, thời hạn áp dụng các tiêu chí này.
Mặt khác, do các đặc thù về quản lý kinh tế và vị trí địa lý, mỗi địa phương cần xây dựng và ban hành các tiêu chí áp dụng ENT trên cơ sở chuẩn chung (khung ENT) của Chính phủ. Tuy nhiên, vấn đề cần được đặt ra là có hay không việc mỗi địa phương sẽ ban hành một ENT riêng, vì không khéo các “ENT địa phương” sẽ trở thành một dạng “luật địa phương” áp dụng đối với các cơ sở bán lẻ.
Các tiêu chí áp dụng ENT cũng cần phải được công khai dù được ban hành và áp dụng ở cấp trung ương hay địa phương. Bên cạnh đó, các tiêu chí áp dụng ENT cũng cần được định kỳ xem xét lại cho phù hợp với các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của vùng và từng địa phương.
_______________________
(1) Số liệu của hãng tư vấn Mỹ A.T. Kearney.
(2) Theo Nghị định 23/2007 của Chính phủ ngày 12-2-2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Thông tư 09/2007 ngày 17-7-2007 của Bộ Thương mại, hướng dẫn thi hành Nghị định 23.
Nguồn: TBKTSG
