
Tin mới
Đứa con không chịu lớn (29/01)
06/08/2010 - 33 Lượt xem
Công nghệ vẫn lạc hậu đến 30-40 năm
Khởi nghiệp từ năm 1991 với chiếc máy sản xuất mì ăn liền, đến nay ông Võ Hoàng Liệt, Giám đốc Trung tâm Phát triển công nghệ và Thiết bị Liduta, đã có trong tay một danh mục hơn 100 loại máy móc, thiết bị khác nhau.
Đối tượng khách hàng của trung tâm khá rộng, từ mua dây chuyền và thiết bị chế biến thực phẩm, sản xuất thức ăn gia súc, đóng gói cho đến các thiết bị dùng trong ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ và hệ thống xử lý khí thải...
“Chúng tôi nghiên cứu chế tạo theo đơn đặt hàng, khách hàng yêu cầu làm cái gì thì Liduta làm cái đó”, ông Võ Hoàng Liệt nói. Với hướng đi này, chắc chắn danh mục thiết bị của Liduta chế tạo sẽ còn tiếp tục kéo dài.
Chọn hướng đi “làm theo yêu cầu của khách hàng” tuy giúp cho Liduta có thể kiếm sống qua ngày, nhưng đây chỉ là cách làm “chẳng đặng đừng” và không dễ cho doanh nghiệp có thể định hình thương hiệu, để từ đó vươn xa hơn ra khỏi thị trường nội địa.
Với dải sản phẩm quá rộng, Liduta ít có điều kiện đầu tư nghiêu cứu và phát triển sâu vào một loại dây chuyền thiết bị nào, nhằm hình thành nên sở trường riêng và cũng là thế mạnh cạnh tranh của mình.
Ông Võ Hoàng Liệt tâm sự: “Nếu tập trung phát triển theo sở trường, thì số lượng thiết bị chế tạo và tiêu thụ được sẽ rất ít, không đủ để doanh nghiệp tồn tại”.
Có thể xem Liduta là một bức tranh thu nhỏ của ngành cơ khí Việt Nam, với những đặc điểm như sản phẩm mang tính đơn chiếc và phi tiêu chuẩn, mức độ chuyên môn hóa kém, trang thiết bị và công nghệ lạc hậu. Chất lượng máy móc chế tạo thấp và sức cạnh tranh yếu, dù cho được bán với giá rẻ. Đây cũng gần như là hình ảnh chung của ngành này cách nay mấy chục năm.
Trên thực tế, ngành cơ khí trong năm năm gần đây đã đạt được một số thành tựu. Rõ nét nhất là tốc độ tăng giá trị xuất khẩu. Năm ngoái, kim ngạch xuất khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng và phương tiện vận tải đạt 2,5 tỉ đô la Mỹ, gấp hơn hai lần so với năm 2006. Về sản phẩm, đến nay ngành này đã đóng được tàu biển có trọng tải đến 100.000 tấn và thiết bị phi tiêu chuẩn của các dây chuyền sản xuất xi măng, nhà máy điện, mía đường... với tỷ lệ nội địa hóa, theo công bố của Bộ Công Thương, lên đến 65%. Riêng công nghiệp xe máy, tỷ lệ linh kiện, phụ tùng sản xuất trong nước đến 85-90%.
Thành tựu trên là đáng kể, tuy nhiên nếu nhìn vào trình độ công nghệ nói chung, thì tình hình chưa cải thiện được mấy. “Công nghệ nhiệt luyện quá kém, công nghệ đúc càng tệ hại hơn, nên cơ khí Việt Nam hầu như không thể chế tạo được những thiết bị đòi hỏi phải có độ bền và chính xác cao”, ông Võ Hoàng Liệt nhấn mạnh.
Theo đánh giá của các chuyên gia trong ngành, công nghệ của ngành cơ khí Việt Nam đến nay vẫn lạc hậu 30-40 năm so với trình độ của khu vực và lên đến 50-60 năm so với các quốc gia phát triển. Những sản phẩm mới như tàu biển, xe buýt, thiết bị nhà máy điện... vẫn phải chế tạo theo thiết kế của nước ngoài. Vai trò của ngành cơ khí trong nước thực chất vẫn chỉ là gia công, lắp ráp.
Bên cạnh đó, những số liệu công bố về tỷ lệ nội địa hóa khiến người ta có cảm giác Việt Nam sắp sửa tự chế tạo được nguyên dây chuyền đồng bộ nhà máy xi măng hay chiếc xe gắn máy. Nhưng thực tế không hoàn toàn như vậy. Chẳng hạn như dự án xây dựng một số nhà máy xi măng ở miền Bắc, phần thiết bị chế tạo trong nước được công bố đến 65%. Cụ thể hơn, trong 11.000 tấn thiết bị của nhà máy, các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam chế tạo được 7.000 tấn. Tuy nhiên, số tiền chủ đầu tư phải trả để nhập 4.000 tấn thiết bị nước ngoài lại chiếm hơn ba phần tư trong tổng kinh phí đầu tư của dự án.
Cách tính tỷ lệ nội địa hóa theo khối lượng này có ý nghĩa cho việc báo cáo thành tích hơn là thước đo để đánh giá sự tiến bộ của ngành cơ khí. Từ đó, có thể thấy những con số về tỷ lệ nội địa hóa xe gắn máy 85-90% hay 40% đối với xe buýt cũng cần xem lại, khi mà toàn bộ động cơ và những phụ tùng quan trọng vẫn phải nhập khẩu.
Đâu là nguyên nhân?
Nguyên nhân của tình trạng trên trước hết là do hướng phát triển các doanh nghiệp không đi vào chuyên môn hóa theo chiều sâu, mà hầu hết lại chọn phát triển theo chiều rộng với định hướng sản phẩm không rõ ràng. Đặc điểm chính của hướng đi này là “sản xuất bất kỳ sản phẩm nào khách hàng yêu cầu”. Rõ ràng, cách làm này không giúp ngành cơ khí có nhiều cơ hội đầu tư vốn và chất xám để giải quyết được những nhược điểm căn bản về kỹ thuật, công nghệ, vốn có liên quan trực tiếp đến chất lượng và đẳng cấp của sản phẩm. Đồng thời, nó cũng làm cho thị trường bị phân tán, khiến cho không doanh nghiệp nào có được đơn đặt hàng một loại thiết bị với số lượng đủ lớn.
Tuy nhiên, cũng không thể trách các doanh nghiệp, vì nếu tập trung nghiên cứu, sản xuất hàng loạt theo sở trường, thì không sống nổi, vì nhu cầu đặt hàng quá ít. Đồng thời, chuyên môn hóa cần vốn đầu tư rất lớn, nhưng tỷ suất lợi nhuận lại thấp và thời gian thu hồi vốn dài, nên chẳng ai dám mạo hiểm đầu tư và cũng khó vay ngân hàng. Trong khi đó sự hỗ trợ đầu tư từ phía Nhà nước không đáng kể. Ông Ngô Văn Trụ, Vụ phó Vụ Công nghiệp nặng thuộc Bộ Công Thương, cho biết trong suốt giai đoạn 1986-2002, ngành này chỉ được đầu tư không quá 17 triệu đô la Mỹ (không kể đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài).
Từ sau năm 2002 đến nay, ngành cơ khí tuy được Chính phủ cấp nhiều tín dụng đầu tư với lãi suất ưu đãi, nhưng phần lớn lại rơi vào một số tổng công ty và tập đoàn nhà nước, như đóng tàu, ô tô... để sản xuất những sản phẩm ở công đoạn cuối cùng là gia công và lắp ráp. Trong khi đó, những khâu quan trọng như đúc, tạo phôi, công nghệ nhiệt luyện, thiết kế và đào tạo nguồn nhân lực... thì chưa được đầu tư nhiều.
Ngoài ra, xu hướng phát triển theo chiều rộng còn thấy ngay trong chiến lược phát triển của ngành cơ khí. Có thể thấy, Việt Nam đưa ra một chương trình phát triển khá tham vọng, với mong muốn sản xuất hầu hết những mặt hàng trong nước có nhu cầu, từ tàu biển, ô tô, thiết bị cơ khí ngành xây dựng, điện lực, dầu khí cho đến sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp, chế biến thực phẩm, sản phẩm dân dụng và thiết bị cho nhiều ngành khác. Mục tiêu về tỷ lệ nội địa hóa và chiếm lĩnh thị trường nội địa cũng rất cao, đến 70-80%.
Rõ ràng, mục tiêu kể trên là khó khả thi, ít nhất là trong giai đoạn ngắn hạn, do nhu cầu thị trường nội địa, một trong những nền tảng quan trọng cho sự phát triển của một lĩnh vực sản phẩm, chưa lớn. Hơn nữa, mục tiêu tự sản xuất gần như từ đầu đến cuối một sản phẩm cũng không còn phù hợp với xu thế chung của thế giới hiện nay.
Hiện tại, mỗi năm Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 18 tỉ đô la Mỹ máy móc thiết bị. Điều đó cho thấy thị trường Việt Nam có tiềm năng không nhỏ nhưng chúng ta cũng không thể có tham vọng tự chế tạo và thay thế hoàn toàn nhập khẩu. Điều quan trọng là đưa ngành cơ khí Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, trong đó ưu tiên phát triển những sản phẩm, công đoạn mà Việt Nam có thế mạnh hoặc có thị trường tiêu thụ lớn.
Đây là giải pháp tốt để mở rộng thị trường tiêu thụ ra thế giới và cũng là điều kiện tốt để đầu tư chuyên môn hóa theo chiều sâu. Suy cho cùng, mục tiêu quan trọng đối với ngành cơ khí chính là ở gia tăng giá trị sản xuất và doanh thu xuất khẩu, chứ không phải ở số lượng sản phẩm làm được hay tỷ lệ nội địa hóa nhiều hay ít.
Nguồn: TBKTSG
