Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Tập trung vào một số trọng tâm chính sách để kiềm chế lạm phát (01/03)

06/08/2010 - 23 Lượt xem

Một số nguyên nhân tạo áp lực lạm phát

Nguyên nhân hàng đầu trực tiếp và dễ nhận thấy trong việc tạo áp lực gia tăng CPI chung của cả nước, nhất là ở các đô thị lớn như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, chính là sự gia tăng đột ngột về sức tiêu thụ các hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng gắn với dịp Tết cổ truyền dân tộc. Sự gia tăng giá cả và chi phí của các nhân tố “đầu vào” trong các tháng tới, giá một số mặt hàng chủ chốt tăng (như xăng, điện) cũng sẽ tác động tới CPI năm 2010.

Việc điều chỉnh tỷ giá VND/USD của Ngân hàng Nhà nước ngày 11/2 có tác dụng tốt nhằm hạn chế, giải toả tình trạng găm giữ, cũng như kỳ vọng đầu cơ, góp phần cân đối theo nguyên tắc thị trường cung-cầu về ngoại tệ, kích thích xuất khẩu và tăng cường sản xuất trong nước, từ đó góp phần kiềm chế vững chắc lạm phát. Tuy nhiên, trong thời gian đầu, sự điều chỉnh tỷ giá này có thể ít nhiều làm tăng giá của hàng hoá và nguyên liệu nhập khẩu, do đó làm tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá, cũng như làm giảm lượng hàng nhập khẩu, từ đó có thể làm gia tăng áp lực lạm phát cung-cầu và chi phí đẩy.

Mặc dầu kinh tế thế giới 2010 còn tiềm ẩn nhiều bất ổn nhưng nhiều khả năng cho thấy  sự phục hồi từng bước nền kinh tế và gia tăng các hoạt động tiêu thụ hàng hoá, nguyên liệu cả trên thị trường trong nước và thế giới (khi kinh tế thế giới phục hồi, giá dầu sẽ tăng cao, kéo theo giá xăng, phân bón, thuốc trừ  sâu và các nguyên liệu sắt, thép, xi măng tăng…), nhất là từ nửa cuối năm 2010, sẽ ít nhiều tạo áp lực tăng giá các hàng hoá và dịch vụ, đưa mặt bằng giá xã hội lên mức mới, làm tăng  đồng thời các loại lạm phát chi phí đẩy và lạm phát ngoại nhập…

Đánh giá về khả năng tăng trưởng nền kinh tế cũng như tốc độ lạm phát của của Việt Nam, Ngân hàng HSBC cho rằng, áp lực lạm phát sẽ trở thành vấn đề ngày một lớn khi giá dầu và thực phẩm tăng cao. HSBC dự báo tăng trưởng GDP cả năm 2010 của Việt Nam sẽ đạt 6,8%; lạm phát 8% và lãi suất cơ bản sẽ là 12%.

Còn theo Ngân hàng Standard Chartered, tỉ lệ lạm phát của Việt Nam sẽ ở mức một con số, đứng ở mức trung bình 8,9% trong năm 2010 và lên mức 10% ở thời điểm cuối năm 2010.

Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đưa ra mức dự báo lạm phát ở Việt Nam năm 2010 là 8,5%, thậm chí có thể trở lại 2 con số, do nguồn cung tiền tăng nhanh năm 2009 và giá hàng hoá cơ bản của thế giới dự báo sẽ tăng lên trong năm 2010.

Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Việt Nam cần giám sát chặt chẽ tình hình lạm phát, đặc biệt khi giá hàng hoá tiếp tục ở mức cao trong năm 2010. Tuy nhiên, theo "Dự báo khu vực tài chính Việt Nam đến năm 2013" do Công ty Nghiên cứu thị trường RNCOS của Mỹ vừa công bố, thì Việt Nam đã trở thành địa chỉ hấp dẫn các nhà đầu tư tài chính quốc tế, và còn nhiều lĩnh vực có tiềm năng to lớn để phát triển trong thời gian 2009-2013.

 Một số trọng tâm chính sách cần tập trung thực hiện

Theo các dự báo này, có thể thấy năm 2010, mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới 7% của Việt Nam là vô cùng khó khăn. Để kiềm chế tốt lạm phát, ổn định và nâng cao chất lượng phát triển kinh tế, chúng ta cần chú ý hơn đến các trọng tâm chính sách sau:

Thứ nhất, cần đảm bảo yêu cầu cạnh tranh kinh tế thị trường có sự quản lý Nhà nước về giá cả. Cần thiết lập, thúc đẩy và hoàn thiện cơ chế thị trường cạnh tranh đầy đủ có sự kiểm soát một cách hiệu quả đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực chưa tự do hóa. Cần thực sự cho cạnh tranh thị trường đầy đủ trong việc cung cấp và  định giá hàng hoá và dịch vụ theo thị trường.

Thứ hai, linh hoạt và phối hợp đồng bộ các công cụ và hoạt động quản lý, giữa yêu cầu thắt chặt với nới lỏng tài chính-tiền tệ, đảm bảo an toàn và hiệu quả vốn đầu tư. Cụ thể là: Cần đảm bảo an toàn, hiệu quả kinh doanh của tổ chức tín dụng và các quy định của pháp luật về cho vay, đảm bảo tỷ lệ an toàn kinh doanh, quản lý ngoại hối; kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng và chuyển dịch mạnh cơ cấu tín dụng theo ngành, lĩnh vực, địa bàn thành thị và nông thôn, kỳ hạn và khách hàng vay, đáp ứng vốn cho các nhu cầu vay để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, trong đó tập trung các nguồn vốn cho vay sản xuất nông – lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp, thu mua nông sản, chế biến và xuất khẩu.

Chính sách tỷ giá trong thời gian tới cần linh hoạt theo hướng thu hẹp chênh lệch tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do, phù hợp với các xu hướng tỷ giá chung của các đồng tiền chủ chốt trên thế giới.

Tiếp tục tập trung cải cách thủ tục hành chính, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh; kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng công tác tham mưu về chính sách phát triển kinh tế, các hoạt động quản lý hành chính nhà nước, điều tiết thị trường và thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước, cũng như nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả đầu tư nhà nước; bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán và hiệu quả của hệ thống cơ chế, chính sách, đặc biệt là sự nhất quán giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ quốc gia.

Thứ ba, tăng cường công tác thông tin, dự báo và phản biện chính sách xã hội trước các biến động nhanh chóng của thị trường. Dự báo cần bám sát, cập nhật và đưa ra các cảnh báo cần thiết về các biến động thị trường khách quan trong nước và quốc tế.

Ngoài ra, cần coi trọng việc xây dựng hệ thống số liệu và dữ liệu thông tin chuyên ngành trực tiếp phục vụ cho các hoạt động dự báo, kinh doanh và điều hành kinh tế các cấp; khắc phục tình trạng các thông tin kinh tế thường bị phân tán, chia cắt, rời rạc, thiếu chuẩn hoá thống nhất giữa các nguồn và đơn vị quản lý. Có chính sách về thông tin thị trường và quản lý nhà nước minh bạch đầy đủ, cập nhật và thuận lợi hơn, bám sát các nguyên tắc thị trường, các cam kết hội nhập và thông lệ quốc tế.

Đặc biệt, cần phát huy mọi nguồn lực nhằm tạo sự đồng thuận xã hội rộng rãi trong nước và quốc tế, kể cả với Việt kiều, tạo thước đo tin cậy trong định hướng, đánh giá các hoạt động kinh tế – xã hội, cũng như nhu cầu về xây dựng các thiết chế để bảo vệ, phát huy hiệu quả các nguồn lực và sức mạnh của quốc gia, của các địa phương, doanh nghiệp trong nước và quốc tế cho phát triển bền vững.

Nguồn: Chinhphu.vn