Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Kiềm chế lạm phát 2010 : Góc nhìn thương mại (03/03)

06/08/2010 - 24 Lượt xem

Rõ ràng, sẽ là quá vội vàng khi nói rằng chúng ta khó có thể thực hiện được mục tiêu kiềm chế giá tiêu dùng cả năm dưới 7% nếu chỉ căn cứ vào mức tăng 1,36% của giá tiêu dùng trong tháng mở màn của năm nay và mức tăng 1,96% trong tháng 2 vừa qua, tức là bình quân mỗi tháng tăng 1,66% và tổng cộng hai tháng đã tăng 3,35% chỉ trong 1/6 chặng đường của năm nay.

Vẫn trong vòng “thông lệ”

Sở dĩ như vậy là bởi lẽ, thực tế này hoàn toàn không vượt ra ngoài “tập quán” của nền kinh tế nước ta. Các số liệu thống kê từ năm 1993 có thể cung cấp ba căn cứ đủ vững sau đây cho nhận định này:

Thứ nhất, đây là hiện tượng thường thấy nhất trong khoảng thời gian diễn ra Tết Nguyên đán của mỗi năm. Cụ thể, trong 17 năm đó, trong khi chỉ có 4 năm có mức tăng giá bình quân của hai tháng này trên 2%/tháng (hai năm 1994-1995 và gần đây nhất là hai năm 2008-2009) và cũng là bốn năm có tổng mức tăng giá tiêu dùng cả năm vượt qua ngưỡng hai con số, thì 13 năm còn lại đều có mức tăng dưới ngưỡng 2%/tháng (dao động trong khoảng 0,35-1,90%/tháng) và đồng thời cũng là 13 năm có tổng mức tăng giá tiêu dùng cả năm nằm dưới ngưỡng hai con số.

Thứ hai, không những vậy, điều còn đáng chú ý hơn rất nhiều là, trong số 13 năm có mức tăng giá bình quân của hai tháng này theo “thông lệ” và cũng có tổng mức tăng giá tiêu dùng cả năm nằm dưới ngưỡng hai con số, thì có tới sáu năm giá tiêu dùng cả năm tăng ở mức “lý tưởng” đối với nền kinh tế nước ta.

Thứ ba, tuy vẫn theo “thông lệ” trong hai tháng đầu năm đó, nhưng thực tế còn cho thấy hai hiện tượng hoàn toàn trái ngược nhau, cho nên chúng ta cũng không thể không cảnh giác trong việc thực hiện mục tiêu kiềm chế giá tiêu dùng ở ngưỡng 7% trong năm nay.

Trong đó, nếu như giá tiêu dùng trong hai tháng đầu năm 1999 và 2000 cũng chỉ tăng 1,80%/tháng và 1,00%/tháng, nhưng đây chính là hai trong số ba năm ít ỏi được coi là sốt lạnh của nền kinh tế nước ta với mức tăng cả năm chỉ là 0,10%, thậm chí giảm 0,60%), trong khi mức tăng bình quân trong hai tháng đầu năm 2007 rất gần đây cũng chỉ là 1,61%/tháng, nhưng cả năm lại tăng tới 12,63%, tức là chỉ kém kỷ lục 19,89% của năm 2008 trong vòng 18 năm trở lại đây.

Tất cả những điều nói trên có nghĩa là, chỉ trừ một số “biệt lệ”, giá tiêu dùng hai tháng đầu năm có Tết Nguyên đán trong mỗi năm đều tăng cao, cho dù giá cả 10 tháng sau đó là như thế nào. Nguyên nhân của tình trạng “đến hẹn” lại tăng cao như vậy của giá tiêu dùng hoàn toàn không có gì “bí hiểm” đối với tất cả những người VN chúng ta từ hàng chục năm nay. Đó là nhu cầu tiêu dùng tăng đột biến khiến giá cả cũng tăng đột biến mỗi khi Xuân về, Tết đến.

Với tổng mức tăng 3,35% chỉ trong hai tháng đầu năm là bước khởi đầu khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu kiềm chế ở mức tăng lạm phát 7% trong năm nay.

Phải kiềm chế sự cộng hưởng”của bốn tác nhân

Do vậy, câu hỏi có ý nghĩa mấu chốt ở đây là, những điều gì đã giúp chúng ta thành công vượt quá xa mong đợi trong việc kiềm chế giá tiêu dùng ở mức 6,52% trong năm 2009, và do vậy, triển vọng trong năm 2010 này sẽ vẫn giúp, hay ngược lại, sẽ cản trở chúng ta trong việc thực hiện mục tiêu giữ cho chỉ số kinh tế vĩ mô rất quan trọng này không khác bao xa trong năm nay?

Từ thực trạng và triển vọng kinh tế trong nước và thế giới, có thể nhận diện bốn tác nhân quan trọng nhất cộng hưởng lẫn nhau sau đây:

Thứ nhất, giá nguyên liệu thế giới gần như chắc chắn sẽ hồi phục mạnh mẽ trong năm nay, cho nên thay vì yếu tố giúp chúng ta thành công vượt rất xa mong đợi trong việc thực hiện nhiệm vụ kiềm chế giá tiêu dùng trong năm 2009, nhưng sẽ là thách thức khó vượt qua nhất không chỉ trong việc thực hiện mục tiêu kiềm chế giá tiêu dùng tăng không quá 7%, mà cả trong việc hạn chế NK để kiềm chế nhập siêu ở ngưỡng 20% trong năm nay.

Trước hết, như các số liệu thống kê của IMF cho thấy, giá nguyên liệu thế giới bình quân trong năm 2009 đã giảm 31% trong năm 2009 xuống chỉ còn 118,8 điểm phần trăm (ĐPT) so với 172,1 ĐPT năm 2008, tức là đã xuống thấp hơn mặt bằng giá cả thế giới năm 2006 (120,7 ĐPT). Thế nhưng, theo dự báo của định chế tài chính quốc tế này, do sự hồi phục của kinh tế thế giới, giá nguyên liệu thế giới trong năm nay sẽ tăng khoảng 16% và đạt khoảng 137,8 ĐPT, tức là sẽ cao hơn chút ít so với mặt bằng giá năm 2007 (135,0 ĐPT).

Việc giá tiêu dùng rất có thể sẽ cộng hưởng với các yếu tố lạm phát do chi phí đẩy và lạm phát do cầu kéo cùng mạnh lên trong năm nay khiến cho việc thực hiện mục tiêu kiềm chế giá tiêu dùng hết sức khó khăn nếu không có sự điều chỉnh kịp thời các chính sách vĩ mô.

Trong điều kiện của một nền kinh tế có cả độ mở ở đầu ra và đầu vào rất lớn như nước ta, đặc biệt là trong đó nhóm hàng nguyên liệu hiện vẫn chiếm khoảng 46,6% trong rổ hàng hóa XK và tỷ trọng này trong rổ hàng hóa NK còn chiếm tới khoảng trên 60%, cho nên tác nhân này ảnh hưởng đặc biệt lớn không chỉ đến quy mô xuất NK, mà còn đến cả mặt bằng giá cả trong nước.

Trong năm nay, do giá thế giới tăng mạnh trở lại, đương nhiên chúng ta cũng buộc phải “NK sốt nóng giá cả thế giới” với quy mô cũng không hề nhỏ vào thị trường trong nước, cũng như giá cả hàng hóa XK tăng tất yếu cũng sẽ kéo giá hàng hóa trong nước tăng theo.

Thứ hai, cho dù XK năm nay chỉ tăng 7% như dự kiến, còn để kiềm chế nhập siêu ở ngưỡng 20%, cho nên NK sẽ chỉ tăng vỏn vẹn 4,7%, nhưng rõ ràng đó vẫn là những khoảng “âm dương” cách biệt chưa từng có kể từ năm 1992 trở lại đây cả ở đầu ra XK lẫn đầu vào NK của nền kinh tế.

Trong điều kiện như vậy, sự tăng tốc về lượng cả trong XK lẫn NK đương nhiên sẽ cộng hưởng với yếu tố giá cả tăng như đã nói ở trên làm cho quy mô NK sốt nóng giá cả thế giới vào thị trường trong nước tăng mạnh thêm, còn sức mua của thị trường trong nước do doanh thu XK tăng đương nhiên cũng tăng.

Thứ ba, năm nay sẽ là năm thứ hai liên tiếp chúng ta vẫn còn phải “trả món nợ ứng trước” trong các năm sốt nóng giá cả thế giới trước đây. Chính vì thế, các DN cần tiên liệu trước để ứng phó.

Điển hình nhất trên phương diện này có lẽ là việc thực hiện cơ chế thị trường đối với điện và than.

Thứ tư, cho dù tốc độ tăng trưởng kinh tế dự kiến năm nay cũng không quá vượt trội so với thành tựu rất đáng tự hào trong năm đầy thách thức 2009, nhưng chắc chắn là tốc độ tăng thu nhập của quảng đại các tầng lớp dân cư cũng sẽ cao hơn, nên sức mua cũng sẽ tăng cao hơn.

Mặt khác, thay vì trạng thái tụt dốc năm thứ hai liên tiếp, cho nên đương nhiên cũng làm cho tâm lý “thắt lưng buộc bụng” mạnh thêm trong năm 2009, sự đi lên của nền kinh tế trong năm nay đương nhiên sẽ làm cho đông đảo những người tiêu dùng lạc quan hơn, cho nên sẽ mạnh tay chi tiêu hơn. Cả hai yếu tố này chắc chắn sẽ cộng hưởng lẫn nhau làm cho thị trường tiêu dùng năm nay sẽ sôi động hơn năm 2009.

Nói tóm lại, việc giá tiêu dùng rất có thể sẽ cộng hưởng với các yếu tố lạm phát do chi phí đẩy và lạm phát do cầu kéo cùng mạnh lên trong năm nay khiến cho việc thực hiện mục tiêu kiềm chế giá tiêu dùng hết sức khó khăn nếu không có sự điều chỉnh kịp thời các chính sách vĩ mô.

Ưu tiên chính sách tài khóa

TS Vũ Thành Tự Anh - Giám đốc nghiên cứu Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright sự giằng co giữa mục tiêu khống chế CPI 7% và tăng trưởng GDP 6,5% trong năm 2010 có thể dẫn tới một số thay đổi đột ngột trong quỹ đạo chính sách.

Khác với 5 - 7 năm trước đây, thực tiễn cho thấy đang có sự đánh đổi khá đắt giữa một bên là bất ổn kinh tế vĩ mô đi liền với tăng trưởng cao và ngược lại. Bởi vậy, việc chủ động kiềm chế lạm phát nên được coi là ưu tiên số một trong nỗ lực ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2010. Để đạt mục tiêu này, theo ông Anh, Ngân hàng nhà nước (NHNN) cần thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, nhằm kiềm chế tốc độ tăng trưởng tín dụng và cung tiền. Nếu Chính phủ vẫn muốn duy trì một mức tăng trưởng GDP khả dĩ, thì nên sử dụng chính sách tài khoá.

Thực tế cho thấy, trong một nền kinh tế có chế độ tỷ giá gần như cố định như VN, chính sách tài khoá tỏ ra hiệu quả hơn trong giúp tăng trưởng GDP, đồng thời không gây sức ép quá lớn tới mặt bằng giá. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng nếu như ngân sách được sử dụng thực sự hiệu quả. NHNN cũng cần điều chỉnh chính sách chính sách theo hướng giảm tâm lý găm giữ USD, chẳng hạn như thông qua việc duy trì chênh lệch lãi suất USD và vàng so với VND ở mức hợp lý, để khuyến khích người dân giữ VND, thay vì găm giữ USD và vàng.

Việc chủ động kiềm chế lạm phát chỉ mang lại hiệu quả cao khi các biện pháp tiền tệ được thực thi đồng thời với các giải pháp về tài khoá. Theo GS TS Nguyễn Thanh Tuyền, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Tài chính TP HCM, cần đổi mới chính sách tài khoá theo hướng công khai, loại bỏ yếu tố “xin - cho”, để bảo đảm công bằng trong phân bổ ngân sách. Cùng với thắt thắt chặt hợp lý, nên tăng hiệu quả của chi ngân sách, nhất là chi cho đầu tư công nhằm giảm sức ép đối với CPI và giảm rủi ro khi có những biến động từ bên ngoài. Hạn chế khởi công các dự án lớn, mà thay vào đó tập trung vốn cho hoàn thành các dự án có thể đưa vào sử dụng trong năm 2010 và 2011.

Bên cạnh đó, TS Trần Đình Thiên cho rằng, cùng với triển khai các giải pháp cấp bách, cần tái cấu trúc nền kinh tế, mà bản chất là tạo ra hành lang pháp lý để đảm bảo việc phân bổ các nguồn lực đầu tư hiệu quả. Muốn vậy, cần tạo bước đột phá về cổ phần hoá DN nhà nước và tạo ra môi trường kinh doanh tiết kiệm chi phí hơn cho DN. Tuy môi trường kinh doanh đã có nhiều cải thiện, nhưng chỉ cần nhìn vào chỉ số ICOR liên tục tăng trong những năm gần đây (năm 2007 là 5,2, năm 2008 là 6,6, năm 2009 lên đến 8), rõ ràng không gian cho cải thiện môi trường kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư còn khá rộng...


Nguồn: DDDN