Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Ngành nông nghiệp: Tư duy mới, hạn chế cũ (01/04)

06/08/2010 - 26 Lượt xem

Kết thúc năm 2009, ngành nông nghiệp khẳng định nông nghiệp đã giữ được mức tăng trưởng khá, Theo đó, nông nghiệp tăng 2,17%, lâm nghiệp 3,79% và thuỷ sản tăng 4,57%. Kết thúc năm, VN đã xuất khẩu lượng gạo trị giá gần 2,7 tỷ USD. Ngoài gạo, còn có 5 mặt hàng khác gồm cà phê, cao su, đồ gỗ, tôm và cá tra đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản đạt 15,4 tỷ USD, vượt 10% so với chỉ tiêu được giao.

Mục tiêu lớn

Năm 2010, mục tiêu ngành nông nghiệp đặt ra là tiếp tục phát triển ổn định, bền vững về sản xuất. Đồng thời tạo chuyển biến mạnh mẽ về năng suất, chất lượng, nâng cao sức cạnh tranh cho các sản phẩm nông nghiệp. Ngành đặt mục tiêu đạt sản lượng 39 triệu tấn thóc. Thực hiện các biện pháp nhằm tiếp tục thúc đẩy phát triển chăn nuôi tập trung bằng mô hình trang trại nuôi công nghiệp gắn với cơ sở chế biến và xử lý chất thải... Tiếp tục nỗ lực giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 12%, tăng tỷ lệ hộ nông thôn được cấp nước hợp vệ sinh lên 83%, bảo đảm an sinh xã hội cho khu vực nông thôn. Về mục tiêu cụ thể, ngành đặt mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng nông, lâm, thuỷ sản 3,0 - 3,2%; giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản 4,5 - 4,6%, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, thủy sản 16 tỷ USD.

Về định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn năm 2010, ngành nông nghiệp có nhiệm vụ phải tạo ra “chuyển biến đối với nông nghiệp – nông thôn, bắt đầu từ chuyển biến về khoa học, công nghệ, đi theo đó là công tác quy hoạch căn cơ, lâu dài; phấn đấu nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả để đóng góp vào tăng trưởng nhanh và bền vững, đảm bảo an sinh xã hội”. Những nhiệm vụ cụ thể là: Rà soát lại, xây dựng bản đồ quy hoạch theo hướng thực hiện được ba chức năng: sản xuất nông công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và khu dân cư. Từ đó hình thành các công trình hạ tầng như: đường, hệ thống thủy lợi, trường học, trạm xá... Là triển khai chương trình đào tạo một triệu lao động nông thôn. Là mở rộng thị trường quốc tế, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ để cùng phát triển... 

Ngay đầu năm 2010, Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển giống cây nông, lâm nghiệp, giống vật nuôi và giống thủy sản đến năm 2020. Theo đó, sẽ đầu tư khoảng 69.900 tỷ VND vốn để thực hiện đề án. Trong đó, ngân sách nhà nước sẽ đáp ứng khoảng 22%. Đề án này có nhiệm vụ quy hoạch hoàn thiện hệ thống nghiên cứu, sản xuất và cung ứng giống từ trung ương đến cơ sở theo hướng gắn với vùng sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản..., để tăng nhanh năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Mục tiêu đặt ra là nâng cao “tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 10-15% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của cả nước vào năm 2015 và tăng lên 30-35% vào năm 2020. Đồng thời với triển khai đề án này, các chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển nghiên cứu công nghệ cao trong nông nghiệp sẽ được xây dựng, hoàn thiện,ban hành với mức ưu đãi, khuyến khích cao nhất về các sắc thuế, được hỗ trợ kinh phí cho các dự án nông nghiệp công nghệ cao... Có nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa là định hướng, vừa là giải pháp để xây dựng nền nông nghiệp phát triển ổn định, bền vững.

Nhưng làm thế nào ?

Trong lịch sử mấy nghìn năm, nông nghiệp luôn là thành phần quan trọng nhất, là chỗ dựa quan trọng nhất cho tăng trưởng của kinh tế VN. Ngay thời điểm hiện tại, nông nghiệp vẫn là ngành cung cấp công ăn việc làm, thu nhập cho 80% dân số. Hơn 20 năm nay, nông nghiệp cũng là ngành cung cấp những tiền đề chủ chốt để phát triển công nghiệp. Đa số các khu, cụm công nghiệp cả nước đều được xây dựng trên cơ sở thu hồi đất nông nghiệp, đa số công nhân công nghiệp có nguồn gốc từ lao động nông nghiệp, nông thôn.

Nhưng ở góc độ khác, nông nghiệp hiện vẫn rất khó khăn để tạo ra các thay đổi về chất trong hoạt động. Dù đã tạo ra sản lượng lương thực đủ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu từ nhiều năm (riêng năm 2009 là gần 39 triệu tấn, xuất khẩu trên 6 triệu tấn, kim ngạch 2,7 tỷ USD), nhưng những mâu thuẫn cơ bản của nông nghiệp VN rất chậm được xử lý. Sự tác động của cơ chế, của khoa học, kỹ thuật đã làm tăng năng suất trồng cấy, thúc đẩy tổng sản lượng tăng theo, nhưng phương thức canh tác, trồng cấy của người nông dân vẫn thực hiện theo truyền thống, kinh nghiệm như hàng nghìn năm qua. Sự thâm nhập của phương thức sản xuất mới, máy móc hiện đại vào nông nghiệp có, nhưng kết quả thì vẫn hạn chế. Lý do là vì ruộng đất được chia nhỏ cho các hộ gia đình ở nông thôn, bình quân diện tích nhỏ, manh mún và do đó lại hạn chế, triệt tiêu nhu cầu ứng dụng công nghệ cao để gia tăng giá trị khai thác đất. Kết quả là tại nhiều vùng, ruộng đất chỉ tạo ra sản lượng lương thực đủ ăn cho mỗi gia đình sở hữu ruộng, nhiều vùng khác thậm chí là không tạo ra sản lượng đủ ăn. Để gia tăng giá trị khai thác từ nông nghiệp, một giải pháp đưa ra là khuyến khích tích tụ ruộng đất, hình thành mô hình canh tác kiểu công nghiệp với sự tham gia của máy móc, khoa học, công nghệ, hay mô hình trang trại có diện tích lớn, hoạt động khép kín. Tuy nhiên, tích tụ ruộng đất lại làm nảy sinh vấn đề thừa lao động, thiếu ruộng tại nông thôn và từ đó gây bất ổn xã hội... Hướng xử lý nữa là chủ trương hình thành các vùng sản xuất chuyên canh lớn, tập trung như

cà phê, chè, mía... Nhưng cũng lại là thực tế tại các vùng sản xuất lớn này, cứ tăng được sản lượng thì lại giảm về giá bán, thậm chí nông dân bị ép giá tới không còn lãi, hoặc lỗ nặng. Những câu chuyện về cá ba sa nguyên liệu, hay hiện tại là giá lúa tại đồng bằng sông Cửu Long, cà phê tại Tây Nguyên là ví dụ tiêu biểu cho những khiếm khuyết trong hình thành các vùng sản xuất lớn. Nông dân không có thu nhập ổn định từ đất đã hạn chế tốc độ ứng dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật cao vào sản xuất. Vòng luẩn quẩn là ở chỗ, thiếu đột phá từ ứng dụng khoa học, công nghệ lại không nâng cao được thu nhập của nông dân. Kết quả là nhà nông chính là đối tượng có thu nhập bình quân tăng chậm nhất.

Sự tham gia của DN đã có giai đoạn được xem như lời giải cho bài toán kích thích các nỗ lực gia tăng giá trị hoạt động nông nghiệp. Ngay thời điểm hiện tại, Nhà nước cũng đang can thiệp, bình ổn một số sản phẩm nông nghiệp chiến lược như cà phê, lúa gạo... thông qua các mệnh lệnh hành chính với người thực hiện là các DN. Tuy nhiên, cách làm này chỉ có tác dụng kìm hãm phần nào đà rớt giá, hạn chế bớt thiệt hại của nhà nông, còn lãi hay không thì là chuyện khác. Ngược lại, nó đẩy rủi ro về Nhà nước và DN vì luôn thực hiện trong tình thế cấp bách. Trong một số thời điểm, hệ thống thương lái, DN tư nhân đã bị “kết tội” là thủ phạm gây rớt giá nông sản. Nhưng nếu không có lực lượng này, thì sẽ thiếu luôn kênh phân phối phân bón, giống, tiêu thụ sản phẩm... theo hình thức nợ đầu vụ, trả cuối vụ để hỗ trợ nông dân sản xuất.

Vậy là, trong khi Nhà nước mong muốn xây dựng được nền nông nghiệp mạnh, giá trị cao, DN, nhà khoa học nói riêng đều có nhu cầu khai thác các sản phẩm nông nghiệp, thì nông dân vẫn chưa tìm được tiếng nói chung với những “đối tác” của mình. Sự hợp tác bốn nhà: nhà nông – nhà khoa học – nhà DN – Nhà nước cho đến nay vẫn là mô hình mơ ước mà chưa được hiện thực hóa. Cụ thể hơn, là nông nghiệp VN chưa có mô hình hợp tác với sự tham gia của người sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm được xây dựng trên cơ sở phân chia lợi nhuận một cách công bằng. Nhưng nếu nhìn vào bản chất, thì có thể thấy, trong khi DN, nhà khoa học... đều có tư cách pháp nhân đầy đủ, được công nhận và bị giám sát, ràng buộc bởi hệ thống pháp luật, thì có rất ít – nếu không nói là không có – các cơ chế hấp dẫn, ràng buộc người nông dân với “đối tác” làm ăn của họ: DN và nhà khoa học. Khi tư thế tham gia hợp tác đã không ngang bằng thì khó có thể nói tới sự tin tưởng để tham gia, cũng như kết quả công bằng trong đàm phán phân chia lợi nhuận – vốn là cơ sở đầu tiên quyết định tới sự thành công của hợp tác. Nông nghiệp VN nói chung, nông dân nói riêng quá khó để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nếu không xây dựng được cơ chế phối hợp này.

Nguồn: DDDN