Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Thách thức kinh tế 2010 và sự thích ứng của doanh nghiệp Việt Nam (16/04)

06/08/2010 - 29 Lượt xem

TS Vũ Thành Tự Anh, giám đốc nghiên cứu chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright báo cáo đề dẫn và tham gia chủ trì diễn đàn.

Phát biểu khai mạc diễn đàn, ông Nguyễn Xuân Minh, phó tổng biên tập báo Sài Gòn Tiếp Thị nêu rõ: "Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế là một chủ đề theo đuổi của Sài Gòn Tiếp Thị kể từ lúc tờ báo khai sinh.

Dù phát triển ở mức độ nào, đội ngũ SGTT vẫn không nguôi nhiệt huyết đóng góp cho sức cạnh tranh của nền kinh tế đất nước. Chúng tôi nhận thức đó là một sứ mạng vẻ vang và là môi trường lý tưởng cho sự trưởng thành của một tờ báo trẻ.
Diễn đàn kinh doanh lần thứ nhất này, trong dịp kỉ niệm 15 năm báo SGTT là một cách chúng tôi thể hiện nhiệt huyết đó."

TS Trần Đình Thiên, viện trưởng viện Kinh tế Trung ương trình bày tham luận chính. Theo ông, kinh tế nước ta đang hồi phục đối mặt nhiều khó khăn, nhất là chất lượng và hiệu quả tăng trưởng còn nhiều hạn chế. Sức cạnh tranh của nền kinh tế cũng như nhiều ngành và cả hàng hoá, dịch vụ đều ở mức độ thấp... Thị trường xuất khẩu của Việt Nam vốn nhỏ bé càng bị thu hẹp. Mặt khác, sức ép của chiến lược xuất khẩu có tính chất xâm lấn, hàng Trung Quốc chất lượng thấp, giá rẻ tràn ngập, càng làm cho thị trường nội địa bấp bênh và doanh nghiệp đứng trước nhiều thách thức.

TS Trần Đình Thiên cho biết tham luận của ông tập trung phân tích những vấn đề nêu trên. Ông cũng trình bày một số vấn đề về tái cơ cấu nền kinh tế nước ta đến năm 2020.

LS Nguyễn Ngọc Bích, thạc sĩ luật Harvard, với tư cách người từng tham gia tư vấn chiến lược và quản trị doanh nghiệp, trình bày về tái cấu trúc và quản trị doanh nghiệp trong tình hình hiện nay, về những thách thức trong quản trị doanh nghiệp thời khủng hoảng và hậu khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Doanh nghiệp nước ta đang có gì, cần chuyển đổi như thế nào để tồn tại phát triển bền vững trong tương lai.

Tham gia hội thảo còn có bà Vũ Kim Hạnh, chủ tịch Hội doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao; thạc sĩ Từ Minh Thiện, giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư TP.HCM (ITPC); ông Lê Trọng Nhi, chuyên gia tài chính; ông Phạm Phú Ngọc Trai, chủ tịch tổng giám đốc công ty GIBC; ông Lý Ngọc Minh, giám đốc công ty sứ Minh Long I; ông Lý Xuân Hải, tổng giám đốc ngân hàng TMCP Á Châu (ACB); ông Trần Kim Thành, chủ tịch HĐQT công ty cổ phần Kinh Đô; ông Cao Tiến Vị, tổng giám đốc công ty CP giấy Sài Gòn…

Sau lời mở đầu hội thảo của ông Nguyễn Xuân Minh, phó tổng biên tập báo Sài Gòn Tiếp Thị ; ông Trương Hữu Hiệp, phó giám đốc chi nhánh Sài Gòn, ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) trao tượng trưng cho quỹ Hỗ trợ phát triển giáo dục EDF của báo SGTT số tiền 1 tỉ đồng.

Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh thuyết trình về các vấn đề: Triển vọng kinh tế thế giới 2010, Đánh giá sự phục hồi của kinh tế Việt Nam, Một số vấn đề vĩ mô của năm 2010, Sự thích ứng của doanh nghiệp. Theo ông, thương mại sẽ tăng trở lại trong năm 2010. Cũng theo IMF, thương mại toàn cầu tăng trở lại 2,1% trong năm 2010, nhưng chỉ trở về quỹ đạo tăng trưởng dài hạn sau năm 2012.

Về triển vọng kinh tế Việt Nam 2010, tiến sĩ Anh cho rằng nền kinh tế đang trên đà hồi phục, GDP theo quý tăng liên tục, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp trở lại bình thường, tổng doanh số bán lẻ vẫn tăng trưởng cao…Tuy nhiên đã xuất hiện một số rủi ro ảnh hưởng tới tính bền vững của sự phục hồi: CPI tăng trở lại, lãi suất tăng, thâm hụt cán cân thanh toán, thâm hụt ngân sách…

Những vấn đề cần thảo luận, theo tiến sĩ Tự Anh, gồm:

- Tái cấu trúc nền kinh tế

- Mô hình quản trị doanh nghiệp ở Việt Nam

- Mua, bán, sáp nhập doanh nghiệp

- Xây dựng đội ngũ nhân sự cao cấp

- Kinh doanh đa ngành

- Xây dựng thương hiệu

- Ngân hàng TMCP với chính sách tài chính - tiền tệ.

Tiến sĩ Trần Đình Thiên:

Tốc độ tăng trưởng suy giảm khi bùng nổ cơ hội phát triển và các luồng vốn đầu tư tăng mạnh. Kinh tế “thoát đáy” sớm, phục hồi nhanh dù tác động tiêu cực mạnh từ bên ngoài và “nội lực” suy yếu.

Tính chất kinh niên của các căn bệnh thâm hụt ngân sách, thương mại, bất ổn vĩ mô nói lên điều gì? Theo TS Thiên, tính kinh niên có nguồn gốc từ những yếu kém cơ cấu bên trong, sau xa hơn: từ mô hình tăng trưởng, từ cơ chế phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Tính bất thường, bất ổn vĩ mô nói lên điều gì? Năng lực và cách thức phản ứng chính sách có vấn đề.

Căn nguyên bất ổn vĩ mô: Lạm phát cao

Nguyên nhân bắt nguồn từ cơ cấu – dài hạn: Theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao, dựa mạnh vào vốn đầu tư, trong đó, trụ cột là đầu tư nhà nước.

Cơ chế “ngân sách mềm”, gây thâm hụt lớn và kéo dài.

Tăng trưởng dựa mạnh vào khai thác tài nguyên và lao động năng suất thấp: hiệu quả thấp, giá trị gia tăng thấp.

Thâm hụt thương mại lớn, lý do:

Do cơ cấu:

- duy trì cơ cấu xuất – nhập kiểu «Bắc – Nam» (với TQ);

- các ngành CN hỗ trợ chậm phát triển.

- văn hoá tiêu dùng «mới nổi» (hàng ngoại, hàng xịn).

Do chính sách:

- duy trì chính sách tỷ giá «hướng nội»;

- FDI và cơ chế «chuyển giá»?

Về năng lực điều hành:

Cách điều hành chính sách: thiếu nhất quán, ít bài bản, nặng tình thế, ngắn hạn, hành chính, ít phối hợp.

Quản trị vĩ mô: giám sát yếu, tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình yếu

Chính sách tỷ giá: xu hướng “ổn định tỷ giá” chỉ là cách tư duy duy lợi ích (trả nợ hay tạo năng lực trả nợ//xuất khẩu), tầm chiến lược (mô hình bảo hộ hay cạnh tranh)?

Bất ổn và đầu cơ: Thị trường tài sản (BĐS, Chứng khoán) mỏng, dễ gây tăng giá đột biến, tạo ảo tưởng “làm giàu không khó”

Năm 2010 này có những thách thức và ưu tiên chính sách, theo tiến sĩ Thiên, là:

Các nguy cơ và thách thức lớn:

+ Lạm phát cao hơn mức được phép (Quý 1.2010: 4,12% vs. 7%);

+ Thâm hụt thương mại: 3,5 tỉ USD (25% kim ngạch xuất khẩu).

+ Thâm hụt ngân sách.

Nhiệm vụ ưu tiên:

+ Ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát

+ Tái cấu trúc.

Vậy ta phải làm gì?

Tiến sĩ Thiên đề nghị: “Rút lui” khỏi những can thiệp nhà nước quá mức, có chính sách tỷ giá linh hoạt – “mềm” hơn. Tăng dư địa chính sách: “tái cơ cấu” nhiệm vụ ưu tiên (ổn định và tăng trưởng); tăng phối hợp chính sách.

Đẩy mạnh cải cách và tập trung giải toả các “nút thắt” hạ tầng.

Về vấn đề tái cơ cấu: ông nêu ra hai nội dung – mục tiêu chính:

- Phân bổ nguồn lực hiệu quả (ngành, vùng, khu vực): nguyên tắc: bình đẳng, phát huy lợi thế;

- Gia nhập chuỗi giá trị toàn cầu có “đẳng cấp”.

Nhiệm vụ trọng tâm:

- Đẩy mạnh cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước (các tập đoàn)

- Tái định hướng chiến lược FDI

- Thúc đẩy phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ

- Định hướng đột phá phát triển vùng

Đổi mới mô hình tăng trưởng:

Cần tránh bẫy thu nhập trung bình: vai trò của quản trị phát triển (vĩ mô), cấu trúc doanh nghiệp Việt Nam, chức năng phát triển của các khu vực – thành phần.

Đột phá phát triển mạnh và lan tỏa phát triển rộng.

Luật sư Nguyễn Ngọc Bích trình bày về vấn đề tái cơ cấu doanh nghiệp. Ông ví von doanh nghiệp như một chiếc xe, trước những biến động của môi trường kinh doanh thì cần xoay trở thế nào?

Theo LS Bích, hiện tình của chúng ta có 4 trình độ quản trị:

Quản trị theo sự thuận tiện (giám đốc có thể quyết định như mình muốn)

Quản trị theo khoa học (giám đốc quyết định theo các quy định đã có sẵn)

Quản trị tiên tiến (chất lượng sản phẩm không thay đổi – ISO)

Quản trị hiện đại (kiểm soát được hết công việc, sản phẩm, tiền bạc bằng điện toán – ERP)

Chủ doanh nghiệp không xác định rõ trình độ quản trị của doanh nghiệp nên đã du nhập những kỹ thuật của trình độ quản trị cao cho trình độ thấp (trình độ 3, 4 cho 1) kết quả là tốn kém và không hiệu quả: Ít nhắm vào cơ chế (phần động cơ của chiếc xe) mà nhắm vào cơ cấu (phần khung sườn) bên ngoài, thương hiệu. Chưa chú trọng vào tính cạnh tranh của mình mà vào sự khoe khoang. Nền tảng cơ bản của tăng trưởng yếu: giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô, thể chế kinh tế xã hội. Hiệu quả và khả năng cạnh tranh chậm cải tiến – thủ tục – luật lệ – thói quen.

Theo ông, về phía doanh nghiệp cần tái cơ cấu doanh nghiệp: thay đổi sản phẩm, sửa đổi tổ chức/cơ cấu. Hợp lý hóa cơ chế.

Với chính quyền: là tái cơ cấu nền kinh tế: sắp xếp các thành phần kinh tế (DN nhà nước – DN dân doanh – DN vừa và nhỏ); sắp xếp khu vực kinh tế (Nông nghiệp – Công nghiệp – Dịch vụ/Thương mại ); doanh nghiệp tạo ra các sản phẩm ăn khớp với nhau. Sản phẩm của A là đầu vào của B được C phân phối đi. Tơ sợi – dệt – may – xuất khẩu. Công nghiệp phụ trợ – công nghiệp sản xuất.  

Bà Vũ Kim Hạnh, giám đốc Trung tâm nghiên cứu kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp (BSA), chủ tịch Hội doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng caochia sẻ kinh nghiệm thực tế qua 32 lần theo chương trình Hàng Việt về nông thôn đến hơn 15 tỉnh thành trong nước.

Bà kể: “Lúc đầu, chương trình chỉ có 13 doanh nghiệp tham gia và cho đến thời điểm này, con số đó đã lên 100 doanh nghiệp. Để làm được điều này là một quá trình phấn đấu của nhà tổ chức cùng các doanh nghiệp”.

Bà cho biết, với khoảng 70% dân số Việt Nam sống ở các vùng nông thôn, khi khảo sát thị trường thấy rằng người dân nông thôn đang “khát” hàng Việt. Có nhiều lý do: người nông dân không hiểu khái niệm hàng Việt, vì họ nghĩ đơn giản “hàng Việt là do người Việt buôn bán với nhau”. Ai sản xuất và nguồn gốc thế nào, họ không quan tâm và quan trọng là giá thành rẻ.

Hiện nay, chỉ có 10-15 công ty đa quốc gia 100% vốn nước ngoài có mặt tại các vùng sâu vùng xa Việt Nam. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước bài toán chuyên nghiệp như: xây dựng mạng lưới phân phối, duy trì và phát triển mạng lưới này như thế nào…

Bà Hạnh kể một câu chuyện về việc phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng nông thôn giữa một tập đoàn đa quốc gia và một công ty trong nước. Mỗi công ty đều đưa ra chiến lược riêng, nhưng các công ty nước ngoài lợi thế về mặt xây dựng mạng lưới một cách bài bản, chuyên nghiệp; trong khi doanh nghiệp Việt tỏ rõ thế mạnh “đeo bám” quyết liệt. Sự cạnh tranh thị trường này có thể thấy được hàng ngày, hàng tuần. Điều cốt lõi là để xây dựng thương hiệu đến với người tiêu dùng nông thôn, chính sách tiếp thị sản phẩm luôn quan trọng hơn việc quan tâm đến tình hình doanh thu.

Bà kết luận: “Việc xây dựng mạng lưới phân phối phải do chính doanh nghiệp chủ động. Do thị trường nông thôn đã bị bỏ qua quá lâu, nên rất cần sự hỗ trợ của nhà nước. Quan trọng hơn cả là phải nâng cao đời sống, nâng mức tiêu dùng của người dân nông thôn”.

Về phần mình, ông Phạm Phú Ngọc Trai trình bày những quan điểm về năng lực quản lý của doanh nghiệp. Ông nói:

Hiện Việt Nam được đánh giá là nơi thu hút đầu tư cao nhất tại châu Á với 400.000 công ty (khoảng 63% có vốn đầu tư nước ngoài).

Nhu cầu phát triển có và cần nguồn nhân lực đáp ứng sự phát triển kinh tế. Theo thống kê của VCCI trên 7.000 doanh nghiệp: 42% doanh nhân chưa được bồi dưỡng kiến thức về quản trị doanh nhân, 20% trải qua nhiều chương trình bồi dưỡng từ 6 tháng trở lên, 25% không biết ngoại ngữ…

Hiện nay, tại Việt Nam, cán bộ quản lý được lấy từ 3 nguồn:

- Công ty: nhân viên sẵn có, tuy nhiên khó giữ do xảy ra tình trạng nhảy việc sau một thời gian sau khi được đào tạo

- Nguồn trôi nổi: chọn cán bộ từ doanh nghiệp tốt, có yếu tố đầu tư nước ngoài. Điều này đôi khi gặp khó khăn môi trường làm việc mới không phù hợp.

- Sinh viên mới ra trường: thực tế gần 70% sinh viên ra trường không có việc làm

Ông Trai nêu ví dụ, một số công ty tận dụng nguồn nhân lực từ các sinh viên mới ra trường, dưới dạng những tên gọi khác nhau: quản trị viên tập sự, hạt giống lãnh đạo… Sau khoảng 2 năm, một thế hệ quản lý mới xuất hiện với những tài năng lãnh đạo phù hợp với tiêu chuẩn của họ.

Ông kết luận: để có một lực lượng quản lý đúng yêu cầu, doanh nghiệp nên chú ý: củng cố và phát triển nguồn nhân lực tài năng, xây dựng kế hoạch thu nhận người tài có chiến lược, nguồn cán bộ quản lý tài năng trẻ phải được định hình như một chiến lược kinh doanh trong thời kỳ hội nhập.

Bạn đọc SGTT Online cũng đã gửi đến diễn đàn các câu hỏi nhờ các chuyên gia giải đáp.

Bạn đọc sonhuynhvan@...): Thưa ông Trần Đình Thiên, tôi muốn nhờ ông giải đáp giúp, với những gì tôi biết, kinh tế nước ta hiện vẫn tập trung vào khai thác tài nguyên, phần lớn mặt hàng xuât đều là nguyên liệu thô, từ dầu, cà phê, thuỷ hải sản, gạo… Giá trị gia tăng từ đó rất thấp, các ngành sản xuất phụ trợ thì gần như chẳng có gì. Cái nút áo, kim chỉ gi cũng phải cũng phải đi mua của người ta, tinh trạng này tồn tại được bao lâu, và phải chuyển đổi như thế nào?

Tiến sĩ Trần Đình Thiên:

Trong nhiều năm qua, nền kinh tế nước ta phát triển theo mô hình tăng trưởng chiều rộng, dựa chủ yếu vào tăng khối lượng đầu vào và khai thác tài nguyên. Tốc độ tăng trưởng cao đạt được phần lớn là nhờ tăng vốn đầu tư, tăng số lượng lao động năng suất thấp và nỗ lực khai thác tài nguyên. Dầu thô, than đá, quặng sắt, cát, cà phê, gạo, cao su, thủy sản, v.v. - những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta, nguồn đóng góp quan trọng bậc nhất vào tăng trưởng – đều là tài nguyên hoặc sản phẩm thô, hầu như chưa có thêm bao nhiêu giá trị gia tăng. Nếu kể rộng ra hơn, dệt may, giày dép xuất khẩu cũng thuộc loại sản phẩm, tuy được gọi là “chế biến”, nhưng vẫn “thô là chính”. Đây là những sản phẩm mà công đoạn Việt Nam đảm nhiệm đứng ở nấc thang thấp nhất trong chuỗi giá trị gia tăng của sản phẩm – công đoạn gia công bằng lao động kỹ năng thấp.

Bức tranh tăng trưởng như trên còn đáng báo động hơn khi bổ sung thêm vào đó nạn chặt rừng, săn bắt thú rừng, đào cát trên các dòng sông theo kiểu “tận diệt”, “tận khai” trong nỗ lực “đua tranh xuất khẩu” để kiếm tiền nhanh.

Hậu quả là tiền thu có vẻ dễ dàng, song thực ra chẳng được bao nhiêu. Đánh đổi lại, phân hóa giàu nghèo gia tăng, môi trường bị tàn phá, cơ sở tăng trưởng cho thế hệ sau bị hủy hoại nặng nề. Đó là giá mà dân tộc, thế hệ sau phải trả theo logic “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”.

Có những ý kiến cho rằng tăng trưởng chiều rộng, dựa nhiều vào khai thác tài nguyên, là giai đoạn không tránh khỏi đối với những nước mới nhập vào quỹ đạo phát triển hiện đại. Song vấn đề không hoàn toàn như vậy. Không phải nước nào cũng dựa vào khai thác tài nguyên mới đi lên được. Nhật bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore đưa ra những kinh nghiệm hoàn toàn ngược lại. Những những đi sau, có cơ khôn ngoan hơn nếu biết học hỏi và rút kinh nghiệm, càng không nhất định phải như vậy.

Đối với Việt Nam, điều đáng lưu ý là chúng ta duy trì quá lâu cách tăng trưởng “nóng” kém hiệu quả này. Cho đến tận bây giờ, ngay cả khi những hậu qủa của cách tăng trưởng này đã bộc lộ rõ ràng thì như một vị Giáo sư nước ngoài nói, “thật đáng buồn là vẫn chưa thấy có dấu hiệu gì chứng tỏ Việt Nam thực sự muốn leo lên những nấc thang cao hơn trên chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu và khu vực”.

Hiện nay, yêu cầu chuyển sang mô hình tăng trưởng mới, ít dựa vào khai thác và xuất khẩu tài nguyên, xuất khẩu sản phẩm thô đang chuyển hóa thành một chiến lược hành động thực tiễn của Việt Nam. Chương trình tái cấu trúc kinh tế mà Chính phủ đang khởi động mạnh, với nội dung chủ yếu là thay đổi cách và hướng phân bổ nguồn lực, dành ít nguồn lực hơn cho khai thác và xuất khẩu tài nguyên thô, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực và ưu tiên phát triển các ngành sử dụng lao động nhiều kỹ năng, nhiều công nghệ đang mang lại những khả năng tích cực để giải quyết vấn đề mà câu hỏi đặt ra.

Bạn đọc trangtran@...: Xin hỏi TS Trần Đình Thiên, tôi vẫn thấy cung cách điều hành chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả, tỉ giá, tín dụng của chính phủ trong thời gian qua chủ yếu vẫn bằng biện pháp hành chính phi thị trường. Làm cách nào để có thể sử dụng các công cụ thị trường trong điều hành chính sách

TS Trần Đình Thiên: Thường thường, trong những tình huống khẩn cấp, để “chữa cháy”, “gỡ bí” nhanh, các cơ quan điều hành buộc phải sử dụng một vài biện pháp hành chính. Nhưng lợi mặt này thì cũng dễ phải trả giá mặt khác. Môi trường kinh doanh trở nên bất ổn, chính sách và cách ứng xử Chính phủ trở nên khó dự đoán, logic kinh tế bị phá vỡ, doanh nghiệp lâm vào thế bị động, chi phí giao dịch tăng lên. Nói như thế là để thấy Chính phủ cần hạn chế tối đa việc sử dụng các biện pháp hành chính bất thường trong điều hành kinh tế. Việc lạm dụng nó trong giai đoạn ngắn, mà thường đó là những giai đoạn “nước sôi, lửa bỏng”, dễ gây ra những hậu quả khó lường.

Thời gian vừa qua, trong những tháng cuối năm 2009, đầu năm 2010, (giống như mấy tháng đầu năm 2008), dưới áp lực mạnh của xu hướng lạm phát, nhu cầu tín dụng tăng, lãi suất bị “nén”, thị trường ngoại tệ căng thẳng, v.v., nhiều biện pháp điều tiết hành chính đã được Ngân hàng Nhà nước liên tục tung ra, ví dụ như điều chỉnh chính sách tỷ giá hối đoái, lãi suất cơ bản, “cơi nới” trần lãi suất (một phía), cho phép nhập khẩu vàng, v.v. Cách làm này nói chung là mang tính đối phó tình thế, không dựa trên những cân nhắc dài hạn để trước hết, lựa chọn các giải pháp kinh tế mang tính bài bản, hệ thống.

Kết cục là tình hình vẫn bất ổn; lòng tin bị xao động mạnh. Trong kỳ họp đầu tháng Tư vừa qua, Chính phủ đã lưu ý và đề nghị rút kinh nghiệm nghiêm túc cách làm này. Cách ứng

Tuy nhiên, để có một cách ứng xử chính sách khôn ngoan, phù hợp với đòi hỏi của thị trường – mà thị trường thường rất khôn ngoan và rất khó tính - vấn đề là không dễ dàng. Đây là cả một nghệ thuật. Mà đã là nghệ thuật, hay muốn đạt tới trình độ nghệ thuật, thì trước hết, phải có tri thức kinh tế thị trường hiện đại, hệ thống và bài bản.

Tiếp theo đó là phải có “tâm” với thị trường. Chính phủ phải lấy mục tiêu phục vụ thị trường, phục vụ doanh nghiệp làm trọng, khi đó, chính sách mới hướng tới lợi ích phát triển thị trường, căn cứ vào lợi ích của cộng đồng doanh nghiệp, biết cách tiếp nhận phản ứng của thị trường và doanh nghiệp để tìm kiếm giải pháp đáp ứng phù hợp. Với một cơ chế trách nhiệm với doanh nghiệp, với nhiệm vụ ổn định môi trường kinh doanh và phục vụ doanh nghiệp tăng trưởng không rõ như hiện nay thì không có gì lạ khi nhiều cá nhân trong bộ máy lấy cái tiện, cái dễ cho mình, lấy cái hoàn thành trách nhiệm theo kiểu “cho xong” làm tiêu chuẩn hành động.

Điều này càng dễ xẩy ra trong những lúc khó khăn.

Thứ ba là bộ máy phải có năng lực ứng phó nhanh và quyết đoán hành động trong những tình huống khó khăn. Năng lực này không phải ngày một ngày hai mà tạo ra được. Nó phải dựa trên nền tri thức, hiểu biết về kinh tế thị trường, dựa trên cơ chế chịu trách nhiệm cá nhân trong điều hành.

Quả thật là không dễ dàng. Nhưng trên đời này, có một cái quả thật khác. Đó là “không có việc gì khó”, chỉ là có định làm hay không mà thôi.

Bạn đọc thanhhuong@...: Xin được hỏi TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng viện Kinh tế Việt Nam. Thấy báo chí đưa tin tình hình quý 1.2010, tăng trưởng GDP cả nước đạt 5,8% nhưng ai cũng bảo rằng mức tăng trưởng đó không bền vững. Ông có thể phân tích kỹ hơn về nguyên nhân sâu xa của sự không bền vững là gì? Để phát triển bền vững trong tương lai thì chúng ta cần mô hình tăng trưởng như thế nào? Doanh nghiệp Việt Nam phải làm gì trong điều kiện hiện nay.

TS Trần Đình Thiên: Xu hướng tăng trưởng GDP “quý sau hơn quý trước” của Việt Nam diễn ra từ quý II/2009 đến nay, nghĩa là đã được một năm. Xu hướng này chắc sẽ còn được tiếp tục trong những quý tới. Tuy nhiên, vẫn có cơ sở để nói mức tăng trưởng GDP 5,8% của quý I/2010 là chưa bền vững. Có mấy lý do sau.

Thứ nhất, khả năng giữ mức lạm phát, tính theo CPI, dưới 7% trong năm nay là không dễ dàng. Hiệu ứng “lạm phát trễ” do chính sách kích cầu và chính sách tiền tệ nới lỏng năm ngoái cộng với các yếu tố tăng giá khác (giá tăng do kinh tế thế giới phục hồi, giá đầu vào trong nước tăng trong những tháng trước, chuẩn bị tăng lương cơ bản) cộng thêm những yếu tố quan trọng khác như lãi suất, tỷ giá, sẽ phát huy tác dụng và gây tác động tâm lý không nhỏ.

Thứ hai, nhập siêu quý 1 ở mức cao, làm căng thẳng hơn các cán cân vĩ mô.

Thứ ba, ngân sách thâm hụt ở mức cao.

Thứ tư, tình hình thời tiết diễn biến bất thường và có tác động rất bất lợi trong năm nay là những khả năng đang biến thành hiện thực. Thiếu nước, dẫn tới thiếu điện, gây hạn hán nặng. Tình trạng phá rừng, khai thác quặng theo kiểu hủy hoại môi trường lại đang diễn ra nghiêm trọng.

Trong khi đó, về phía chủ quan, mặc dù Chính phủ đã có Chương trình hành động với những mục tiêu rõ ràng (ưu tiên ổn định vĩ mô và tập trung tái cấu trúc) và quyết tâm cao thì những tín hiệu chính sách theo nghĩa các giải pháp cụ thể để tạo lập và củng cố sự ổn định vĩ mô dường như chưa đủ mạnh.

Đây chính là yếu tố cốt tử để giải quyết vấn đề tăng trưởng trong ngắn hạn. Nhưng để có sự tăng trưởng bền vững thì nền kinh tế cần nhiều hơn thế. Cái nhiều hơn đó liên quan đến mô hình tăng trưởng, đến nỗ lực tái cấu trúc nền kinh tế, đến những chiến lược dài hơi căn bản như chiến lược phát triển nguồn nhân lực, chiến lược phát triển doanh nghiệp.

Ông Từ Minh Thiện, giám đốc ITPC nhận định về những khó khăn mà doanh nghiệp đang gặp phải.

Theo ông Thiện, mức tăng GDP của TP.HCM quý 1.2010 là 11%, đầu tư tương mại cũng tăng mạnh. Vốn FDI cũng tăng, cơ hội đang đến. Năm 2009 có chính sách của nhà nước về miễn giảm thuế cho doanh nghiệp. Tuy là khoan sức dân nhưng thu ngân sách cũng không vì thế mà giảm.

Vừa rồi TP.HCMhọp bàn cơ cấu xuất khẩu, có đưa ra bàn về 4 ngành ưu tiên xuất khẩu, nhưng kết quả lại không có sự gia tăng về kim ngạch xuất khẩu, trong khi những ngành không đẩy mạnh lại có kim ngạch tăng! Chẳng hạn ngành dệt may. Do đó ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực của TP hiện nay là gì thì vẫn còn bàn cãi.

Lãi suất ngân hàng vẫn còn cao, từ 14% trở lên, gây khó khăn cho doanh nghiệp khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Doanh nghiệp nhỏ cũng còn khó khi vay vốn.

Việc người dân, ngân hàng còn găm giữ vàng làm cho ngồn vốn này khó tiếp cận với xã hội. Ngoại tệ cũng là vấn đề đau đầu của doanh nghiệp. TP.HCM trong cuộc gặp lãnh đạo bộ Công thương, Ngân hàng Nhà nước ngày 14.4 qua có đưa vấn đề này ra. Sau đó bốn ngân hàng lớn công bố giảm lãi suất cho vay, khiến các ngân hàng khác phải noi theo, góp phần làm thị trường tiền tệ dễ thở hơn.

Những khó khăn liên quan đến rào cản kỹ thuật trong xuất khẩu (luật Lacey của Mỹ liên quan đến nguồn gốc, xuất xứ nguyên liệu đồ gỗ), luật nguồn gốc đánh bắt hải sản (EU)… thêm khó khăn cho doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu Việt Nam.

Dưới cái nhìn của một nhà doanh nghiệp, ông Lý Ngọc Minh, giám đốc công ty TNHH Minh Long I chia sẻ những kinh nghiệm về việc phát triển thị trường kinh doanh trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế.

Ông cho biết kinh tế thế giới đã trải qua thời kỳ khủng hoảng và đang phục hồi, Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo này. Làm thế nào để thoát khỏi tình trạng suy thoái?

Công ty Minh Long hoạt động và phát triển theo sự phát triển của đất nước, gia tăng tìm hiểu nghiên cứu thị trường, áp dụng những công nghệ mới và sản xuất… Ông dẫn chứng: thị phần của gốm sứ Minh Long từ 20% đã tăng lên 65% vào năm 2009.

Để thoát khỏi khủng hoảng, theo ông Lý Ngọc Minh, doanh nghiệp nên cơ cấu lại các mặt hàng. Chẳng hạn nếu trước đây Minh Long tập trung về mỹ thuật thì sau này sản phẩm của Minh Long ngày càng thiên về mặt công năng. Sản xuất các sản phẩm có giá phù hợp, chuyển hướng thị trường vào các siêu thị, trung tâm mua sắm…

Nhiều người cứ nghĩ nguồn vốn là tiền. Nhưng thực ra vốn chính là ý tưởng, là kinh nghiệm, kiến thức trong kinh doanh. Có thể đọc sách, báo, internet… để thu thập kiến thức, giúp kinh doanh tốt hơn, làm gia tăng giá trị sản phẩm… Bên cạnh đó, phải biết vận dụng tốt chính sách hỗ trợ của nhà nước để tái cấu trúc công ty, ví dụ sửa chữa nhà xưởng, trang bị thiết bị mới…

Thừa nhận mình kinh doanh theo hướng bảo thủ, nhưng ông Minh cho rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ tuy nhỏ bé nhưng xoay sở nhanh nhẹn hơn tập đoàn đa quốc gia. Những nước lớn, doanh nghiệp lớn lao đao trong kủng hoảng vừa qua; trong khi Trung Quốc, Việt Nam, doanh nghiệp nhỏ lại xoay sở nhanh.

Phòng cháy hơn chữa cháy. Xem doanh nghiệp như chiếc xe, phải định lượng độn cơ, tải trọng để xem chở bao nhiêu là vừa. Cần phải làm vừa sức mình, đừng làm cố sức như kiểu thổi bong bóng, dễ vỡ…

Cuối cùng, ông kết lại: làm gì thì làm cũng cần đến yếu tố may mắn, nhưng năng lực của mình có thể thắng được số trời.

Kết thúc diễn đàn, tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh nhận xét, diễn đàn hôm nay chỉ mới là sự bắt đầu; những vấn đề còn tồn tại trong kinh tế, kinh doanh sẽ được tiếp tục bàn thảo tìm lối ra trong thời gian tới.

Nguồn: SGTT