Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Thách thức hay cơ hội?(11/05)

06/08/2010 - 33 Lượt xem

Sự chuyển đổi này xuất phát từ thực tế là nếu tính theo GDP trên đầu người thì hiện nay Việt Nam không còn là một quốc gia chậm phát triển nữa mà đã trở thành một nước có thu nhập trung bình (ở mức thấp). Do vậy, một số nước phát triển đã tổng kết quá trình hợp tác phát triển với Việt Nam trong ba, bốn thập niên qua và quyết định chuyển sang một giai đoạn hợp tác mới trên cơ sở bình đẳng, hai bên cùng có lợi.

Điển hình là Thụy Điển. Ngoài ra, Hà Lan, Đan Mạch và một số nhà tài trợ song phương khác cũng đang tích cực chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi nêu trên, có thể dưới nhiều dạng khác nhau. Xu thế mới này sẽ được tăng cường và trở nên phổ biến trong những năm sắp tới.

Thách thức mới

Trước mắt, sự chuyển đổi nêu trên chắc chắn sẽ là một thách đố mới khá gay gắt đối với nước ta, nhất là về mặt cân đối ngoại tệ mạnh, đặc biệt là trong bối cảnh thâm hụt ngân sách có nguy cơ trở nên trầm trọng hơn. Hàng chục tới hàng trăm triệu ngoại tệ mạnh sẽ vắng bóng trong dòng vốn chảy vào nước ta hàng năm theo cách thức truyền thống như trong các thập niên trước đây.

Tương tự, cơ hội để học hỏi “miễn phí” những kinh nghiệm hay, những ý tưởng, những nguồn cảm hứng mới cho nhiều cuộc cải cách quan trọng ở nước ta sẽ ngày một giảm. Điều này sẽ có tác động không nhỏ đến quá trình phát triển trong chặng đường phát triển tiếp theo của nước ta, khi mà sự phát triển chiều sâu, theo kiểu “thâm canh”, chú trọng về chất sẽ phải thay thế cho sự phát triển thiên về chiều rộng, mang tính “quảng canh”, nặng về số lượng như những thập niên vừa qua.

Tóm lại, thách thức đặt ra từ cơ chế hợp tác quốc tế mới đối với nước ta là hoàn toàn không nhỏ. Cuộc phẫu thuật nào mà không đau đớn. Vấn đề là năng lực của chúng ta trong việc biến thách thức này thành cơ hội và rút ra những bài học bổ ích để khắc phục hệ lụy của nó trên bước đường đi tới.

Cơ hội mới

Thách thức sẽ trở thành cơ hội nếu chúng ta biết cách khai thác và tận dụng chúng.

a) Cơ hội chuyển từ bị động sang chủ động. Viện trợ phát triển chính thức (ODA) nói chung và viện trợ không hoàn lại nói riêng đều có những ràng buộc và điều kiện nhất định mặc dầu trên văn bản và trong các tuyên bố chính thức vị thế chủ động của bên nhận viện trợ thường được nêu lên như là một trong những nguyên tắc căn bản của sự hợp tác. Hệ lụy của những ràng buộc đó là tính chủ động của phía nhận viện trợ thường bị hạn chế, mặc dầu trong những năm gần đây, nhất là từ khi có tuyên bố Paris (3-2005), đã có rất nhiều nỗ lực của cả hai phía, phía cho và phía nhận viện trợ trong việc nâng cao thực quyền và tính chủ động của phía được trợ giúp nhằm nâng cao hiệu quả viện trợ.

Chuyển từ viện trợ không hoàn lại sang hợp tác bình đẳng giữa đối tác hai bên sẽ đặt các đối tác Việt Nam thực sự ngang hàng với các đối tác ở các nước phát triển trong thế chủ động trong đàm phán, ký kết và thực hiện các nội dung hợp tác. Như vậy, nhu cầu của các đối tác trong nước sẽ được tôn trọng và thực thi một cách thực chất, chứ không mang tính hình thức như trong viện trợ không hoàn lại trong các thập niên vừa qua. Điều này sẽ làm tăng hiệu lực và hiệu quả hợp tác và giảm chi phí giao dịch, mang lại lợi ích cho các bên hợp tác.

b) Cơ hội cải thiện tính bình đẳng. Trong quá trình nhận viện trợ không hoàn lại thời gian vừa qua, các đối tác của hai bên thường là các cơ quan tổ chức chính thức đại diện cho nhà nước hai bên. Có thể nói hầu như toàn bộ vốn viện trợ không hoàn lại đều được rót cho các cơ quan nhà nước các cấp. Các tổ chức ngoài nhà nước, các tổ chức xã hội và người dân chủ yếu là người thụ hưởng, chứ không phải là đối tác trực tiếp. Chỉ một tỷ lệ phần trăm tương đối nhỏ của vốn viện trợ không hoàn lại hàng năm được phân bổ cho các tổ chức này.

Sự bất bình đẳng này được tiếp sức thêm bởi tính chất quan liêu của các tổ chức nhận viện trợ nêu trên dẫn đến tình trạng chung là hiệu quả viện trợ thường bị hạn chế (xem thêm bài “Xót xa đồng tiền dự án” trên TBKTSG số ra ngày 4-3-2010). Chuyển sang hình thức hợp tác mới dựa trên nhu cầu và quan hệ đối tác bình đẳng giữa hai bên, các doanh nghịêp, các nhà đầu tư, các đối tác thương mại hai bên có điều kiện hợp tác nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các kết quả hợp tác cho sự phát triển đầu tư, thương mại, mang lại lợi ích chung cho nhân dân hai nước.

c) Cơ hội tăng cường hiệu lực và hiệu quả hợp tác. Với cơ chế hợp tác mới, các đối tác đến với nhau chủ yếu xuất phát từ nhu cầu của chính họ, từ mối quan tâm chung đối với những vấn đề do thực tiễn hợp tác đặt ra. Do vậy các hoạt động hợp tác giữa các đối tác hai bên đều sẽ được thiết kế, lập kế hoạch một cách chặt chẽ, sát sao nhằm tránh lãng phí, giảm thiểu chi phí giao dịch, nâng cao hiệu quả và hiệu lực hợp tác.

Bài học nào cho chặng đường đi tới?

Thứ nhất: chủ động trong lộ trình kết thúc viện trợ không hoàn lại. Viện trợ không hoàn lại không chỉ là nghĩa cử nhân đạo, sự trợ giúp vô tư, cho không của nhà tài trợ mà còn là cái giá phải trả, là học phí, là chi phí dọn và mở đường cho quan hệ hợp tác đầu tư, thương mại và làm ăn lâu dài ở nước nhận viện trợ.

Viện trợ không hoàn lại nói riêng và ODA nói chung do các nhà tài trợ song phương cung cấp thực chất là khúc dạo đầu cho một bản nhạc hoàn chỉnh: đó là hợp tác hai bên cùng có lợi trên cơ sở đầu tư và thương mại. Thực ra, ngay khi viện trợ không hoàn lại đang ở đỉnh cao thì các nước viện trợ cho Việt Nam đã rất nỗ lực tăng cường các mối quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư của nước ta chứ không phải đợi đến khi chấm dứt viện trợ không hoàn lại mới bắt đầu xúc tiến. Các cơ quan viện trợ phát triển của bất kỳ nước nào có mặt tại Việt Nam bao giờ cũng là một bộ phận quan trọng của sứ quán nước đó và có vai trò phối hợp chặt chẽ với cơ quan thương mại - đầu tư của sứ quán để thúc đẩy quan hệ làm ăn lâu dài giữa hai bên.

Một biểu hiện khác rất rõ rệt của mối quan hệ khăng khít giữa viện trợ không hoàn lại và đầu tư - thương mại là: trọng tâm của sự trợ giúp trong viện trợ không hoàn lại cho nước ta thường khá trùng khít với thế mạnh về đầu tư và thương mại của các doanh nghiệp và nhà đầu tư của nước đó. Nói cách khác, việc chấm dứt viện trợ không hoàn lại để chuyển sang cơ chế hợp tác mới như đã phân tích ở trên là lẽ đương nhiên, là việc tất yếu sẽ xảy ra, là việc sớm hay muộn gì cũng sẽ đến. Vấn đề là nó cần được chủ động nhận thức và ứng phó một cách chiến lược chứ không thể để rơi vào thế bị động. Đáng tiếc là cái điều tưởng như hiển nhiên này chưa phải đã được nhận thức và hành động kịp thời và có bài bản như các nhà tài trợ.

Thứ hai: Tự chủ là điều kiện tiên quyết nhằm đảm bảo tính bền vững của kết quả sử dụng viện trợ không hoàn lại. Có tự chủ mới có thể đạt được kết quả một cách lâu bền. Không tự chủ sẽ dễ rơi vào thế bị động. Tuy nhiên tự chủ khác với duy ý chí, khác với “cố đấm ăn xôi”. Tự chủ phải trên cơ sở quan tâm thực sự và năng lực xác định cho trúng nhu cầu trợ giúp và các kết quả cần đạt, cách thức tổ chức thực hiện chúng, chứ không phải là làm mọi cách để giành được quyền quản lý dự án/chương trình mặc cho tiến độ đạt kết quả dự án/chương trình ra sao.

Năng lực ở đây được xác định trên hai góc độ: năng lực về chuyên môn kỹ thuật và năng lực quản lý tài chính-nguồn lực của dự án. Cả hai đều được xem xét và đánh giá để đi đến quyết định về phương thức quản lý. Kinh nghiệm cho thấy không phải lúc nào phương thức cơ quan chủ dự án Việt Nam quản lý cũng mang lại hiệu quả mong muốn.

Thứ ba: Khai thác tối đa “phần mềm” trong gói viện trợ. Trong gói viện trợ không hoàn lại thường có cả phần cứng lẫn phần mềm. Trong đó phần cứng là máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, phụ tùng... và phần mềm là các giải pháp kỹ thuật, bí quyết kỹ thuật “know-how”, tư vấn, các đề xuất và khuyến nghị mang tính chính sách... Thời gian đầu, tỷ trọng của phần cứng rất lớn, có khi tới trên 70% tổng số vốn viện trợ. Càng về sau, tỷ lệ này càng giảm và hiện nay nó thường chiếm trung bình khoảng 10-20%.

Tuy nhiên, cái gọi là phần mềm ở hầu hết các dự án hiện nay chủ yếu liên quan đến các hoạt động đào tạo, điều tra, khảo sát mà chưa chú trọng đúng mức đến việc khai thác cơ hội viện trợ phát triển để tiếp cận các bí quyết kỹ thuật, các phương pháp và công cụ mới, đặc biệt là các ý tưởng và các gợi ý mới về chính sách. Bất cập này cần sớm được khắc phục trong các dự án viện trợ phát triển đang và sẽ triển khai trong thời gian tới trước khi chúng sẽ khép lại, hoàn toàn nhường chỗ cho các chương trình/dự án theo cơ chế mới, tức trên cơ sở đối tác bình đẳng.

Nguồn: TBKTSG