Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Bước tiến hay bước lùi (12/05)

06/08/2010 - 36 Lượt xem

Theo thông báo của Hội nghị lần thứ 12 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X*(dưới đây gọi tắt là Hội nghị TƯ 12), Hội nghị đã xem xét dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển) sẽ đưa ra thông qua tại Đại hội lần thứ XI của Đảng dự định họp vào đầu năm 2011 (dưới đây gọi tắt là Dự thảo Cương lĩnh 2011); trong đó, đã xác định một đặc trưng quan trọng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: "có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu".

Như vậy, về đặc trưng này, dự thảo Cương lĩnh 2011 trở lại đúng như Cương lĩnh đã được thông qua tại Đại hội VII năm 1991 (dưới đây gọi tắt là Cương lĩnh 1991), khác với kết luận đã nêu trong Nghị quyết Đại hội X năm 2006 khi điều chỉnh nội dung Cương lĩnh 1991: "có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất" [1].

Kết luận nêu trên của Đại hội X được hình thành qua thảo luận khá sôi nổi trong quá trình soạn thảo Báo cáo chính trị và tiến hành Đại hội X, với những lập luận chính như sau :

Nói quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có nghĩa là không chỉ nhìn vào chế độ sở hữu mà còn bao gồm cả cơ chế quản lý và chế độ phân phối. Mặc dù chế độ sở hữu có vai trò quyết định song không thể xem nhẹ tác động rất quan trọng của cơ chế quản lý và chế độ phân phối, như cuộc sống đã chứng minh. Thêm vào đó, chế độ sở hữu trong thời đại ngày nay không chỉ đặt ra đối với tư liệu sản xuất mà còn phải xem xét cả sở hữu trí tuệ đang có vai trò ngày càng quan trọng gắn với sự phát triển kinh tế trí thức.

Quan hệ sản xuất như thế nào thì phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ hiện đại? Câu hỏi này chỉ có thể tìm lời giải trong hoạt động thực tiễn, qua tổng kết tình hình thực tế, không thể suy diễn hoặc dựa vào những điều được coi như "nguyên lý" nhưng chưa được chứng minh trong cuộc sống.

Chỉ có thể khẳng định một điều: quan hệ sản xuất được coi là phù hợp khi nó thúc đẩy chứ không kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển ấy thể hiện trên nhiều mặt, đưa tới kết quả cuối cùng là quy mô, năng suất, hiệu quả của nền kinh tế ngày càng tăng, tạo cơ sở không ngừng mở rộng tái sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân.

Có ý kiến cho rằng nói "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất " thì không rõ ràng, thiếu tính xác định. Vì vậy, dự thảo Cương lĩnh 2011 xác định rõ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu là một đặc trưng đồng thời là mục tiêu phải đạt tới "khi kết thúc thời kỳ quá độ, xây dựng xong về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp" (trích Thông báo Hội nghị TƯ 12).

Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất được cụ thể hóa trong việc xác định "kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân" (trích Thông báo Hội nghị TƯ 12).

Kinh tế nhà nước hiển nhiên mang tính công hữu, song vai trò chủ đạo của nó là vấn đề cần được nhìn nhận đúng với thực tế. Đóng góp quan trọng của kinh tế nhà nước vào tổng sản phẩm trong nước (GDP) cũng như vào nguồn thu ngân sách là một sự thật được khẳng định không chỉ trong những năm qua mà cả trong thời gian tới. Điều quan trọng là chất lượng của sự đóng góp đó.

Nghị quyết Đại hội IX năm 2001 khi xác định những yếu tố bảo đảm vai trò chủ đạo đã đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước (là bộ phận chính trong khu vực kinh tế này) phải "đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế-xã hội và chấp hành pháp luật"[2].

Yêu cầu này được thực hiện như thế nào? Muốn có câu trả lời đích đáng, phải nắm được nguồn lực và sự hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.

Khi xem xét hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong quan hệ so sánh với các thành phần kinh tế khác, cần chú ý tới những sự khác biệt có thể dẫn tới đánh giá không đúng thực tế; chẳng hạn hiệu quả kinh tế-xã hội cần được làm rõ nội dung để có thể đánh giá được kết quả thực hiện; khi tính tỷ suất lợi nhuận so với vốn thì cần lưu ý rằng vốn của doanh nghiệp nhà nước thưòng không được tính đủ, đặc biệt là không tính đến hoặc chỉ tính một phần giá trị đất sử dụng; khi đánh giá phần đóng góp của doanh nghiệp nhà nước vào ngân sách, không thể bỏ qua một điều là phần thuế gián thu chiếm một tỷ lệ cao hơn các thành phần kinh tế khác mà phần này là đóng thay cho người tiêu dùng vv...

Như vậy cần có đủ thông tin, số liệu song cho đến nay vẫn chưa có quy chế về báo cáo công khai của các doanh nghiệp nhà nước, nên nhân dân được mang danh là chủ sở hữu đích thực của các doanh nghiệp này cũng không có căn cứ để đánh giá, không biết được sự thật.

Qua tình hình thực tế, nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng sự tồn tại và phát triển của nhiều doanh nghiệp nhà nước không nhằm thực hiện các yêu cầu đã nêu trong nghị quyết Đại hội IX mà chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế về độc quyền và vị trí chi phối đối với nhiều sản phẩm và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, tận dụng các ưu đãi của Nhà nước về điều kiện hoạt động, đặc biệt là sử dụng đất đai, vay vốn tín dụng...

Những lợi thế và ưu đãi đó khiến cho môi trường kinh doanh của nước ta không bảo đảm tính cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp; do đó hạn chế động lực quan trọng nhất của kinh tế thị trường. Vì vậy, dự thảo chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 coi việc tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng đi liền với cải cách hành chính là trọng tâm của khâu đột phá về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường (trích thông báo Hội nghị TƯ 12).

Về kinh tế tập thể, nghị quyết Đại hội X năm 2006 đề ra: "phát triển mạnh các loại hình đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, bao gồm các tổ hợp tác và hợp tác xã kiểu mới"[3].  Tính tập thể cuả hợp tác xã thể hiện trong hoạt động, song về mặt sở hữu có thuộc chế độ công hữu hay không? Khi thành lập, vốn của hợp tác xã do các xã viên góp cổ phần; các cố phần này thuộc sở hữu của cá nhân xã viên trao cho tập thể quyền sử dụng, khi xã viên ra khỏi hợp tác xã thì được quyền lấy lại cổ phần đã góp. Chỉ đến khi hợp tác xã trích lợi nhuận kinh doanh lập quỹ của tập thể (thường gọi là quỹ không chia) thì quỹ này mới thuộc sở hữu tập thể. Vì vậy, xét về mặt sở hữu đối với nguồn vốn ban đầu, các nhà kinh tế và thống kê trên thế giới xếp hợp tác xã vào khu vực kinh tế tư nhân.

Có ý kiến mở rộng khái niệm kinh tế tập thể, bao gồm cả những công ty cổ phần đại chúng. Tính chất và hoạt động của loại hình kinh doanh này khác với doanh nghiệp tư nhân, song về mặt sở hữu, nó vẫn là kinh tế tư nhân chứ không phải kinh tế tập thể.

Như vậy, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước chưa được chứng minh trong thực tế. Kinh tế tập thể thì có vấn đề về chế độ sở hữu cần làm sáng tỏ; thêm vào đó, do nhiều nguyên nhân, hợp tác xã ở nước ta phát triển chậm, sức sống còn hạn chế. Vì thế, khẳng định kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân vừa không phù hợp với thực tế vừa không có lợi cho việc tạo lập môi trường kinh doanh trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh phù hợp với kinh tế thị trường.

Nhìn rộng ra thế giới, chưa có nước nào thiết lập chế độ công hữu đối với phần lớn tư liệu sản xuất chủ yếu, lấy kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể làm nền tảng mà nền kinh tế phát triển vững chắc, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao, phát huy được toàn diện tiềm năng của con người.

Có ý kiến cho rằng dù chưa được thực tế thừa nhận nhưng vẫn phải giữ vững quan điểm về chế độ công hữu vì đó là một "nguyên lý" của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.

Về vấn đề này, trước hết, cần tránh một sự ngộ nhận lớn cho rằng Mác đã hình thành đủ cơ sở lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Mác chỉ có một số gợi ý và dự báo; có những dự báo rất có giá trị mở hướng cho hoạt động thực tiễn và cũng có những đề xuất do khát vọng tiến bộ xã hội nhưng thiếu căn cứ thực tế và cơ sở khoa học.

Mác không bao giờ tự coi lý luận của mình là đủ, là hoàn chỉnh, không thể và không cần thêm gì nữa; trái lại, bản chất lý luận của Mác đòi hỏi sự phát triển không ngừng theo biến đổi của thực tế cuộc sống và thực tiễn hoạt động của con người.

Bản thân Mác cũng đã từng thay đổi quan điểm về những vấn đề lý luận quan trọng. Chẳng hạn về phương thức vượt qua chủ nghĩa tư bản, Mác lúc đầu cùng với Ăng-ghen chỉ nhìn thấy phương thức bạo lực; đến năm 1880 (ba năm trước khi từ trần), Mác đã nói khi góp ý kiến cho Cương lĩnh của Đảng công nhân Pháp: "Giai cấp sản xuất có thể biến việc bầu cử phổ thông đầu phiếu từ chỗ là công cụ lừa bịp thành công cụ giải phóng của giai cấp sản xuất"[4].  Sau khi đề ra chính sách kinh tế mới để vực dậy nền kinh tế nước Nga bị kiệt quệ mấy năm sau cách mạng tháng 10, Lênin cũng đã lên tiếng nhắc nhở: "Chúng ta buộc phải thừa nhận là toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản"[5].

Nhân danh chủ nghĩa Mác-Lênin để bảo vệ một cách máy móc những luận điểm không phù hợp với hiện thực khách quan, chính là đi ngược lại tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã đề ra: "Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng"[6].

Sự phân tích trên dẫn tới câu hỏi: Đặt chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu thành một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế trong xã hội xã hội chủ nghĩa là bước tiến hay bước lùi về tư duy đổi mới?

Để có căn cứ trả lời câu hỏi này, cần nghiên cứu toàn văn dự thảo Cương lĩnh 2011 cùng với dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 và dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khóa X tại Đại hội XI. Tiếc rằng theo Thông báo số 316-TB/TW ngày 15-3-2010 của Bộ Chính trị thì đến ngày 15-10-2010 các văn kiện này mới được công bố để lấy ý kiến nhân dân trong vòng một tháng (từ 15-10 đên 15-11-2010). Các văn kiện này đã được Hội nghị TW 12 thảo luận, thông qua và Thông báo số 316 quy định việc gửi các văn kiện đã chỉnh lý cùng với hướng dẫn thảo luận cho các quận, huyện ủy và tương đuơng (là cấp được nhận toàn văn các văn kiện, khác với cấp cơ sở có mấy văn kiện chỉ đuợc nhận bản tóm tắt) phải hoàn thành chậm nhất là trước ngày 1-5-2010.

So với kỳ chuẩn bị Đại hội trước thì các văn kiện đưa ra lấy ý kiến nhân dân kỳ này nhiều hơn và dài hơn; vì vậy nên và có thể công bố sớm để dành thời gian thích đáng cho mọi người nghiên cứu, trao đổi và đóng góp ý kiến bằng thư gửi đến các cơ quan có trách nhiệm tổng hợp hoặc viết bài đăng báo. Gói gọn thời gian này trong một tháng thì không đủ và không thể hiện được tinh thần của Đảng thật lòng mong đợi và tin tưởng vào sự đóng góp trí tuệ của dân.

Để đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống và nguyện vọng của nhân dân, Đại hội lần thứ XI của Đảng rất cần được đông đảo những người nặng lòng vì nước đóng góp ý kiến, không chỉ về đường lối, chính sách mà cả về công tác nhân sự.

Hy vọng bài này nhận được ý kiến phản hồi, tranh luận, gợi mở việc nghiên cứu, thảo luận, góp ý cho Đại hội sắp tới của Đảng.


* Họp từ 21 đến 28 tháng 3 năm 2010

[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 2006, trang 68

[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr 96

[3] Sách đã dẫn ở chú thích 1, trang 86

[4] Trích trong sách tiếng Pháp "Karl Marx - Textes choisis et annotés par Jean Canapa" Editions sociales, Paris 1966 - p. 486-487  ("Các Mác - các bài do Jean Canapa chọn và bình" NXB xã hội Pa-ri 1966, tr 486-487).

[5] Lênin toàn tập, NXB Tiến bộ Mat-xcơ-va 1978, tập 45, tr 428

[6] Sách đã dẫn ở chú thích 1, tr 131

Nguồn: Vietnamnet, tuanvietnam