Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Tăng trưởng nhìn từ góc độ xã hội (31/05)

06/08/2010 - 23 Lượt xem

Thu nhập, lao động việc làm - một năm sau cơn bão tài chính

Báo cáo “Triển vọng kinh tế thế giới” vừa được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố lưu ý rằng nhu cầu nội địa sẽ là động lực chủ chốt thúc đẩy tăng trưởng tại khu vực châu Á trong giai đoạn phục hồi. Như vậy, kinh tế phục hồi nhanh trước hết sẽ dựa trên khả năng thúc đẩy tiêu dùng trong nước và gia tăng sức mua của xã hội, nhằm thay thế sự giảm sút xuất khẩu. Song, sức mua khó tăng lên khi thu nhập của người lao động còn thấp và do tác động của lạm phát.

Thực tế cho thấy 70% dân số ở nông thôn nước ta có thu nhập thấp, trong khi thu nhập của hai phần ba dân số đô thị (chiếm 30% dân số) vẫn dưới mức trung bình. Thị trường nội địa bị giới hạn do sức mua kém nên không dễ dàng phát huy được thế mạnh tiềm năng. Trong khi đó, người nông dân phải tự bươn chải, tự làm và phải chịu rủi ro về biến động giá cả, thời tiết và thị trường xuất khẩu thế giới. Đây là những hạn chế có tính thách thức lớn và lâu dài đối với Việt Nam, chứ không chỉ trong giai đoạn phục hồi kinh tế hiện nay.

Cơ hội việc làm mang lại thu nhập ổn định cho người dân là một trong những ràng buộc quan trọng đối với quá trình tăng trưởng vì mục tiêu con người. Tuy nhiên, tiền lương công nhân khu chế xuất còn thấp hơn so với người lao động tự do khiến cho nhiều người không muốn vào làm trong các doanh nghiệp ở các thành phố lớn, chi phí sinh hoạt đắt đỏ, khắt khe về thời gian và phải xa quê hương.

Trong khi đó, phúc lợi của người lao động trong con mắt doanh nghiệp hiện quá đơn giản, chỉ bao gồm nơi ở, công việc, bữa ăn giữa ca. Song ngay cả những nhu cầu thiết yếu đó cũng chưa được đáp ứng tốt như được phản ánh qua đời sống công nhân các khu công nghiệp, hiện đang phải chịu đựng những rủi ro mất việc, thất nghiệp, đau ốm, tai nạn lao động, an toàn cá nhân. An sinh xã hội ở khu vực nông thôn cũng hết sức hạn chế. Trên hai phần ba nông dân trong tình trạng “tay làm hàm nhai”, hầu hết người già không có lương hưu, lại không được trợ cấp, không có bảo hiểm y tế trong khi mạng lưới an toàn xã hội truyền thống dựa trên cơ sở gia đình, thân tộc và cộng đồng đang phá vỡ cùng với quá trình đô thị hóa quá nhanh.

Cơ hội việc làm mang lại thu nhập ổn định cho người dân là một trong những ràng buộc quan trọng đối với quá trình tăng trưởng vì mục tiêu con người.

Lao động việc làm trong và sau khủng hoảng luôn là vấn đề nóng đối với mọi quốc gia. Năm 2009, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế nên vấn đề giải quyết việc làm cho 1,7 triệu lao động đã không đạt được mục tiêu đề ra.

Từ cuối năm 2008 và trong năm 2009, sự đình trệ và suy thoái của kinh tế thế giới đã có tác động mạnh tới thị trường lao động trong nước, dẫn đến tình trạng mất việc, giảm giờ làm, giảm tiền lương và thu nhập. Tình hình đặc biệt khó khăn diễn ra ở các doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu nguyên liệu gia công để tái xuất ra nước ngoài. Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế, từ quí 4-2009 các doanh nghiệp ở các địa phương có nhu cầu tuyển dụng như Hải Dương, Thái Bình, TPHCM, Bình Dương... đã đón được xu hướng phục hồi kinh tế và tuyển dụng lao động trở lại.

Tuy nhiên, tình hình khan hiếm lao động từ đầu năm nay ở các khu công nghiệp là rất đáng quan tâm. Câu chuyện thị trường lao động sau Tết biến động do nhiều lao động về quê không quay lại làm việc diễn ra hàng năm, trở thành nỗi ám ảnh đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vốn sử dụng nhiều lao động phổ thông.

Thực trạng trên trước hết phản ánh những khó khăn bất cập của người lao động như điều kiện lao động độc hại, chế độ đãi ngộ kém, bớt xén phúc lợi và bảo hiểm của công nhân... Vấn đề là ở chỗ, không phải người lao động thiếu gắn bó với công việc mà trước hết là do chính sách tiền lương chưa thỏa đáng khiến cho đời sống công nhân gặp nhiều khó khăn, khó yên tâm với công việc. Mức tăng lương tối thiểu (khoảng 7%) chưa đủ bù đắp được sức lao động nếu so với mức tăng giá tiêu dùng và sinh hoạt đang gây sức ép đối với công nhân ở các khu công nghiệp.

Khi cung cầu lao động chưa khớp nhau thì sẽ gây trở ngại lớn đối với mục tiêu tăng trưởng. Gói kích thích kinh tế năm 2009 của Chính phủ với mục tiêu ưu tiên là kích cầu đầu tư và tiêu dùng, duy trì tốc độ tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô. Chi tiêu xã hội chỉ chiếm một phần nhỏ trong gói kích thích kinh tế. Trong khi đó, các doanh nghiệp, công ty và tập đoàn quốc doanh từ nhiều năm qua không tạo ra công ăn việc làm. So với sự đầu tư và ưu đãi mà khu vực quốc doanh nhận được thì đây quả là một nghịch lý.

Trong khi đó, chất lượng nguồn nhân lực đang cản trở sự bứt phá của Việt Nam. Ở các nước phát triển, do đầu tư tốt vào giáo dục nên yếu tố khoa học công nghệ đóng góp vào tăng trưởng giá trị gia tăng 70-80%, còn Việt Nam mức đóng góp hàm lượng chất xám chỉ 10-15% nên giá trị hàng hóa vẫn thấp, giá trị thu về cho nền kinh tế còn thấp. Bên cạnh đó, những khó khăn như thiếu kinh nghiệm quản lý và thiếu lao động có tay nghề đang đe dọa sự phát triển bền vững.

Một kết quả khảo sát gần đây của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho thấy tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chỉ chiếm khoảng 30% lực lượng lao động. Gần 80% lao động trẻ ở độ tuổi từ 20-24 khi tham gia vào thị trường lao động hầu như chưa qua đào tạo nghề chính thức nào. Chất lượng lao động thực sự thấp khi năng suất lao động xã hội ước tính chỉ đạt xấp xỉ 1.600 đô la Mỹ/lao động/năm (thấp hơn nhiều so với mức năng suất bình quân của thế giới là 14.600 đô la).

Triển vọng 2010 và những năm tới

Thị trường thế giới hậu khủng hoảng sẽ trở nên bảo hộ hơn và cạnh tranh quốc tế cũng sẽ ngày càng gay gắt trong nhiều năm tới. Xuất khẩu sang các thị trường Hoa Kỳ và EU hiện không còn dễ dàng như trước. Quá trình phục hồi chứa đựng những mối lo âu. Cách giải quyết việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội như trước đây sẽ gặp khó khăn do hạn chế đầu ra và hiệu quả. Số chỗ làm mới có thể tăng lên song thiếu ổn định, kém chất lượng trong khi đồng lương không tăng, thậm chí giảm sút trên thực tế.

Quá trình tăng trưởng kinh tế trong những năm qua chưa góp phần mở rộng những cơ hội việc làm cho người dân, toàn dụng tốt hơn lực lượng lao động. Để có thể đạt được chỉ tiêu tạo 1,6 triệu việc làm đề ra cho năm 2010, cần chú trọng cải thiện môi trường đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển, song song với nâng cao chất lượng việc làm và chất lượng nguồn nhân lực. Cần có những đối sách cụ thể và hữu hiệu hơn nhằm tăng cường phúc lợi, cải thiện thu nhập và điều kiện sống cho người lao động.

Phương thức tạo việc làm trong nước năm 2010 và những năm tới ở Việt Nam về cơ bản vẫn theo phương châm xã hội hóa: đó là Nhà nước, xã hội và bản thân người lao động cùng tạo việc làm, giải quyết việc làm. Giải quyết việc làm đối với khu vực nông thôn Việt Nam vẫn là vấn đề lớn bởi hai lẽ: một là do quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa còn tiếp tục nên việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp vẫn diễn ra đòi hỏi phải có việc làm mới cho nông dân mất đất. Hai là, cần chuyển dịch một số lượng lớn lao động nông nghiệp sang các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đòi hỏi phải tạo ra nhiều việc làm trong các lĩnh vực này. Việt Nam cần xem xét đầu tư cho khu vực dịch vụ để có thể tạo được nhiều việc làm. Đây là nhiệm vụ nặng nề và khó khăn song không thể không thực hiện.

Các chỉ tiêu kinh tế trong kế hoạch năm năm tới của Việt Nam được đặt ra khá lạc quan, và đặc biệt ưu tiên cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cho tốc độ tăng trưởng trong thời gian tới. Chúng ta đang phấn đấu đạt tỷ lệ tăng trưởng 6,5% trong năm nay và 7-8%/năm cho giai đoạn 2011-2015. Để có thể thực hiện được những mục tiêu đó, cần có tư duy mới và cách làm mới.

Mô hình tăng trưởng của thế giới hiện nay không còn như trước. Tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, cạn kiệt tài nguyên, gia tăng ô nhiễm môi trường là trái ngược với quan niệm phát triển bền vững. Đây là một phương thức tăng trưởng không có tương lai, không còn khả thi như trước. Thay vào đó, tăng trưởng kinh tế dựa trên việc mở rộng nguồn vốn con người, tạo ra nhiều việc làm nhằm toàn dụng lao động, cải thiện thu nhập và phúc lợi xã hội đang là mô thức tăng trưởng cần được ưu tiên. Việc mở rộng các cơ hội việc làm thực sự sẽ là cầu nối quan trọng cho mục tiêu này.

Nguồn: TBKTSG