
Tin tức
“Điểm mặt” những bất cập trong thương mại (11/06)
06/08/2010 - 25 Lượt xem
Trở lại năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ trước, tuy tổng kim ngạch xuất khẩu thực hiện đạt 68,952 tỷ USD, tăng cao gấp 2,6 lần nhịp độ tăng GDP (19,65%/năm so với 7,57%/năm) là thành tựu lớn, nhưng điều đáng ngại là, từ xuất phát điểm đã cao hơn 14,5% so với xuất khẩu, nhập khẩu vẫn tăng 18,97%/năm, cao gấp 2,51 lần nhịp độ tăng GDP, nên nhập khẩu đạt tới 84,398 tỷ USD và quy mô nhập siêu đạt 15,418 tỷ USD, còn tỷ lệ nhập siêu lên tới 18,89% và bằng 7% GDP.
Vì vậy, các nhà hoạch định chiến lược thương mại đã hoàn toàn có lý khi cho rằng, cần phải đảo ngược tình thế bằng cách đẩy xuất khẩu tăng bình quân 15%/năm, đồng thời hạn chế nhập khẩu ở mức 14%/năm để bắt đầu chuyển sang xuất siêu vào năm 2009 và chiến lược này đã được điều chỉnh từ năm 2006.
Tuy nhiên, trong 9 năm qua, nhập khẩu tăng bình quân 18,11%/năm, trong khi xuất khẩu chỉ tăng 17,34%/năm. Vì vậy, trong khi tổng kim ngạch xuất khẩu 9 năm qua chỉ đạt gần 320 tỷ USD, thì tổng kim ngạch nhập khẩu đạt trên 388 tỷ USD, nên quy mô nhập siêu đã lên tới gần 69,2 tỷ USD, đạt tỷ lệ 21,69% và bằng 13,34% GDP.
Như vậy, sau gần một thập kỷ thực hiện mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời hạn chế nhập khẩu, tình hình nhập khẩu vẫn tăng nhanh hơn xuất khẩu và nhập siêu càng lớn cả về quy mô lẫn tỷ lệ.
Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, nhịp độ tăng cả xuất lẫn nhập khẩu của nước ta là rất nhanh. Chỉ sau gần 2 thập kỷ đẩy mạnh xuất khẩu, độ mở đầu ra xuất khẩu (kim ngạch xuất khẩu so với GDP) đã tăng vọt từ 26,20% lên 62,03%, còn ở đầu vào nhập khẩu cũng tăng đại nhảy vọt từ 29,35% lên 76%.
Để so sánh, Hàn Quốc, trong vòng gần 6 thập kỷ phát triển, tuy đã phải trải qua một thời kỳ liên tục nhập siêu dài tới 36 năm đầu (1950 - 1985), nhưng quy mô nhập siêu đạt kỷ lục vào năm 1979 cũng chỉ là 5,282 tỷ USD và tỷ lệ nhập siêu so với GDP chỉ 3,12%, còn độ mở của nền kinh tế ở đầu ra xuất khẩu chỉ là 8,95%, đầu vào nhập khẩu chỉ 12,09%.
Tất cả những điều nói trên có nghĩa là, mặc dù còn ở trình độ phát triển rất thấp, nhưng nền kinh tế nước ta đã lệ thuộc nhiều vào thị trường thế giới.
Nguồn gốc của thực trạng này là do, đến nay, chúng ta đầu tư nhiều vào khâu “hạ nguồn” trong hàng loạt ngành sản xuất, trong khi công nghiệp đầu nguồn chưa phát triển, nhiều khâu công nghiệp trung gian, công nghiệp hỗ trợ vẫn là những “vùng trắng”.
Bất cập thứ hai của nền thương mại nước ta những năm gần đây là, do đã phát triển rất ngoạn mục trở lại trong nửa thập kỷ qua, nên thực tế này đồng nghĩa với sức mua của thị trường trong nước có lẽ đã được tận khai. Và nếu vậy, điều này cũng đồng nghĩa với việc khó có thể tiếp tục mở rộng nhanh để tiếp tục trở thành nguồn động lực chủ yếu thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững trong những năm tới.
Trước hết, nếu cùng tính bằng USD như trong xuất khẩu, nhịp độ tăng của thị trường bán lẻ hàng hoá và dịch vụ đã bắt đầu vượt ngưỡng 20% từ năm 2005 trở lại đây, còn trong năm 2009 đầy khó khăn, vẫn tăng xấp xỉ 16%. Và chỉ có nhờ vậy, đầu ra này mới vượt qua xuất khẩu để trở thành nguồn động lực lớn nhất thúc đẩy nền kinh tế đạt được nhịp độ tăng trưởng 5,32%.
Tuy nhiên, cũng chính vì vậy, tỷ lệ của “rổ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng” của nước ta đã đạt kỷ lục 72,77% so với “rổ GDP”. Điều này có nghĩa là, các tầng lớp dân cư của nước ta vẫn đang ở trong tình trạng đủ trang trải cho cuộc sống hàng ngày là chính, chứ chưa thể đầu tư mạnh cho mở rộng, phát triển sản xuất.
Trong khi đó, có thể nói, lạm phát cao là một căn bệnh tái phát những năm gần đây có quan hệ rất chặt chẽ với hai tồn tại, bất cập nói trên.
Trước hết, các số liệu thống kê của nước ta cho thấy, chỉ số giá tiêu dùng của nước ta trong 6 năm gần đây lần lượt là 9,5%, 8,4%, 6,6%, 12,63%, 19,89% và 6,52%, bình quân tăng 10,5%/năm.
Có thể nói, đây là mức tăng cao, bởi như theo tính toán của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, nếu lấy giá tiêu dùng năm 2005 làm mốc (= 100%), thì mặt bằng giá tiêu dùng của nước ta năm 2009 đã ở mức 153,30%, còn của các nước trong khu vực ở trình độ phát triển cao hơn nước ta đều thấp rất xa, như Malaysia (109,82%), Thái Lan (110,13%), Philippines (121,48%).
Hẳn nhiên, việc giá tiêu dùng của nước ta 6 năm gần đây tăng mạnh so với của các nước trong khu vực và so với của chính nước ta trước đó là còn do những tác nhân khác, nhưng nguyên nhân chủ yếu không thể phủ nhận chính là do “rổ hàng hoá nguyên, nhiên, vật liệu nhập khẩu” so với “rổ GDP” quá lớn so với các nước khác.
Nói cách khác, không chỉ do độ mở ở đầu vào nhập khẩu và đầu ra xuất khẩu quá lớn, mà còn do phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu nguyên, nhiên, vật liệu, nên nhập siêu và lạm phát (tính theo giá tiêu dùng) của nước ta đều tăng khi thị trường thế giới sốt nóng.
Nguồn: Báo Đầu tư
