Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Ngành khai khoáng và mối lo lợi ích nhóm (16/06)

06/08/2010 - 24 Lượt xem

Sáng kiến minh bạch trong ngành khai khoáng

Các nguyên nhân chủ yếu dẫn tới cạm bẫy lời nguyền tài nguyên bao gồm sự yếu kém của nền quản trị công; thiếu thông tin và minh bạch trong các khoản thu từ ngành khai thác khoáng sản và mất cân đối trong chia sẻ quyền lực và lợi nhuận. Sáng kiến minh bạch trong các ngành công nghiệp khai khoáng (EITI) được khởi xướng với mong muốn đóng góp vào minh bạch hóa ngành công nghiệp khai khoáng.

Để đảm bảo việc khai thác tài nguyên sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các bên liên quan, đã có nhiều sáng kiến cũng như cách tiếp cận nhằm quản lý tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững ở cấp độ toàn cầu như Công bố các khoản chi trả (Publish What You Pay) do tổ chức Global Witness khởi xướng, Hiến chương phát triển bền vững ngành khai thác khoáng sản do Hội đồng quốc tế về khai khoáng và các kim loại (International Council on Mining and Metals- ICMM) đề xuất...vv. Nhưng nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các Chính phủ trên Thế giới phải kể đến Sáng kiến minh bạch trong các ngành công nghiệp khai khoáng (Extractive Industries Transparency Initiative-EITI).

Bắt nguồn từ chiến dịch Công bố các khoản chi trả, sáng kiến minh bạch trong ngành công nghiệp khai khoáng đã được phát triển, và lần đầu được Thủ tướng Anh- ông Tony Blair công bố tại Hội nghị thế giới về Phát triển bền vững ở Johanerburg, Nam Phi vào năm 2002 (RWI, 2008).

EITI là một sáng kiến mang tính liên minh tự nguyện giữa các chính phủ, các công ty, các tổ chức xã hội và các tổ chức quốc tế cùng chung mục đích nhằm nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong ngành khai thác khoáng sản. Đây là một tiêu chuẩn toàn cầu về minh bạch nguồn thu bao gồm hai cơ chế chủ yếu: (i) yêu cầu các công ty khai khoáng công khai các khoản chi cho chính phủ và ngược lại yêu cầu chính phủ công khai nguồn thu mà chính phủ nhận được từ các công ty khai khoáng; (ii) EITI yêu cầu một cơ quan quản trị độc lập nhằm đối chiếu các số liệu thu được, cơ quan này được quản lý và giám sát bởi một ủy ban đa đối tượng.

Tính đến tháng 5 năm 2010, đã có 31 Quốc gia trên Thế giới tham gia thực hiện EITI và có 5 nước khác đã công bố thực hiện EITI (EITI, 2010). Trong khu vực Đông Nam Á, sau Đông Timor, Indonesia là Quốc gia thứ hai đăng ký tham gia EITI bằng quyết định của Tổng thống vào 4/2010.

EITI cũng nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các công ty khai khoáng và các tổ chức xã hội. Tính đến nay đã có hơn 50 công ty dầu khí và khoáng sản hàng đầu thế giới như Alcoa, BHP Billiton... và hàng trăm tổ chức xã hội dân sự, các hiệp hội khai mỏ như Viện minh bạch nguồn thu (Revenue Watch Institute), Oxfam, Viện xã hội Mở (Open Society Instutute), Viện dầu mỏ Hoa Kỳ..vv; các tổ chức quốc tế như Ủy ban Châu Âu, Ủy ban Châu Phi, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Châu Á... ủng hộ và chủ động tham gia vào sáng kiến này (http://eiti.org).

Gần đây, Trung Quốc- Quốc gia láng giềng của Việt Nam cũng có những động thái tích cực về EITI thông qua sự ủng hộ của mình ở Nghị quyết hội nghị chung của Liên hợp quốc, trong đó nhấn mạnh tính minh bạch phải được tăng cường ở tất cả các quốc gia thành viên. Hơn nữa, các công ty khai khoáng của Trung Quốc ở các nước như Mông Cổ, Nigeria, Gabon và Kazakhstan đã và đang thực thi các báo cáo trong khuôn khổ EITI (Paris, 2009). Không chỉ riêng Trung Quốc, các nước G20 họp ở Pittsburgh, Hoa Kỳ vào 9/2009 đã ra bản tuyên bố chung trong đó khuyến khích sự tự nguyện tham gia EITI (U.S. Government, 2009).

Lợi ích của việc tham gia EITI

Vậy thì điều gì hấp dẫn các nước tham gia cũng như quan tâm tới sáng kiến này ngày càng tăng? Nhìn chung, tham gia EITI sẽ mang đến các lợi ích cơ bản sau (EITI1, 2009):

1.      Đảm bảo một phần lớn lợi nhuận từ tài nguyên dầu mỏ và khoáng sản được sử dụng để phục vụ nhân dân.

2.      Nâng cao khả năng kiểm tra và giám sát quỹ: thông qua các báo cáo EITI, nhân dân cũng như các nhà hoạch định chính sách sẽ biết được Chính phủ thu được bao nhiêu từ hoạt động khai khoáng cũng như nguồn thu này được sử dụng ra sao.

Trong một số trường hợp báo cáo EITI có thể giúp chính phủ thu hồi được các khoản thu mà các công ty chi khai khoáng trả dưới mức quy định.

Ví dụ như trường hợp của Nigeria, báo cáo kiểm toán EITI của Nigeria đã chỉ ra một khoản chênh lệch giữa số tiền mà các công ty trả cho chính phủ và số tiền mà ngân hàng trung ương Nigeria nhận là 230 triệu naira (khoảng 46 tỉ đồng). Sau khi kiểm toán kỹ lưỡng hơn thông qua các bản đối chiếu và các bản giải trình, thì lượng quỹ bị thất thoát là 8,5 triệu naira (khoảng 1,7 tỉ đồng) (RWI, 2008). Do vậy, kết quả báo cáo EITI đã giúp chính phủ thu hồi được một khoản tiền đáng kể, tránh thất thoát cho nhà nước.

3.      Tăng cường trên diện rộng chống tham nhũng và tăng cường các chương trình nghị sự quản trị tốt: qua việc khuyến khích minh bạch hóa, EITI có thể là trở ngại thật sự đối với các hoạt động tham nhũng.

4.      Xây dựng niềm tin của nhân dân với các thể chế công: nhân dân sẽ cảm thấy vai trò của mình lớn hơn trong quá trình lập định chính sách khi được tham gia thảo luận về các khoản thu-chi từ khai khoáng của Chính phủ. Do đó, họ sẽ thấy tự tin và hài lòng khi lợi ích của mình được cân nhắc trong việc ra quyết định. Điều hiển nhiên rằng một xã hội ổn định là một xã hội ở đó nhân dân tin tưởng vào chính quyền và vai trò, lợi ích của người dân được quan tâm đúng mức.

5.      Tăng cường giảm thiểu những mâu thuẫn nảy sinh giữa cơ quan nhà nước, công ty và cộng đồng: trong hầu hết trường hợp, các hoạt động khai thác khoáng sản dẫn tới việc người dân mất đất (cả đất canh tác lẫn đất ở), môi trường tự nhiên bị ảnh hưởng xấu và văn hóa bản địa bị xáo trộn do nhiều lao động từ các nơi khác đổ về. Những mặt trái liên quan tới khai thác khoáng sản thường dẫn tới các chống đối hoặc tệ hơn là các xung đột giữa cộng đồng sở tại với chính quyền và công ty khai thác.

Một ví dụ điển hình như tình trạng xung đột xã hội kéo dài và căng thẳng ở đảo Aceh, Indonesia mà có lẽ nguyên nhân chính là khởi nguồn từ nguồn lợi dầu mỏ khổng lồ. Một khi tình trạng chống đối và xung đột nảy sinh, chính quyền và công ty khai thác thường đổ lỗi cho nhau.

Việc thực thi EITI tạo ra một môi trường minh bạch hơn thông qua các diễn đàn nhằm thảo luận, thông hiểu và tìm ra các giải pháp nhằm xây dựng lòng tin giữa các bên và giúp phần giảm thiểu các mâu thuẫn.

6. Cải thiện môi trường đầu tư: khi một quốc gia tham gia vào sáng kiến minh bạch tài nguyên điều đó có nghĩa là quốc gia đó đã gửi một tín hiệu rõ ràng tới các nhà đầu tư và các công ty quốc tế rằng Chính phủ cam kết tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong ngành công nghiệp khai khoáng. Điều này sẽ giúp quốc gia đó hấp dẫn hơn trong mắt của nhà đầu tư.

Việt Nam có nên tham gia EITI?

Mặc dù Việt Nam đã một hệ thống luật pháp tương đối đầy đủ cho ngành tài nguyên khoáng sản (Luật Khoáng sản năm 1996 và luật Khoáng sản bổ sung năm 2005) và nhiều luật, văn bản dưới luật liên quan như Luật bảo vệ môi trường, Luật phòng chống tham nhũng, cơ chế minh bạch trong các hoạt động kinh doanh, đầu tư...vv. Tuy nhiên, tình trạng thất thoát tài nguyên và nạn tham nhũng trong ngành khai khoáng vẫn không hề giảm mà thậm chí còn trầm trọng hơn.

Điều này có thể thấy rõ qua chỉ số về tham nhũng gần như không giảm qua các năm gần đây cũng như tình trạng quản lý và khai thác tài nguyên khoáng sản ồ ạt ở các địa phương như khai thác than ở Quảng Ninh, quặng ở Cao Bằng, sa khoáng titan ở các tỉnh ven biển Miền Trung..vv.

Chỉ tính riêng ở Quảng Ninh, chưa tính đến các yếu tố ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường và xã hội do hoạt động khai thác than, mỗi năm ước tính có khoảng 10 triệu tấn than được xuất lậu và gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước khoảng 4500 tỉ đồng, chiếm tới 44,3% tổng thu ngân sách của tỉnh Quảng Ninh (tính theo tổng thu ngân sách năm 2009) (Minh Quang & Đỗ Hữu Lực, 2009; Tổng cục thống kê, 2009).

Một con số không hề nhỏ đang chảy vào túi tư nhân và các nhóm lợi ích!.

Việt Nam vừa chớm bước vào Quốc gia thu nhập trung bình thấp và đang trong quá trình phát triển để trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Tài nguyên khoáng sản chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng giá trị tài nguyên thiên nhiên (khoảng 40%) và là lại loại tài nguyên không tái tạo (CIEM & DoE, 2008). Trong nhiều thập kỷ qua, tài nguyên khoáng sản đã có những đóng góp đáng kể vào phát triển đất nước.

Tuy nhiên, Việt Nam đang thất thoát một lượng của cải lớn và mất đi vĩnh viễn một động lực đáng kể cho sự phát triển của tương lai. Mặc dù đã hơi muộn, nhưng không còn cách lựa chọn nào khác là phải có các cải cách về mặt chính sách và quản lý cũng như tăng cường khả năng giám sát của nhân dân trong các hoạt động khai khoáng.

Đứng trước những bất cập và thách thức đó, chúng ta phải làm gì để giảm thiểu những thất thoát và tình trạng tham nhũng đang ngày càng trầm trọng hơn?

Trong luật khoáng sản của Việt Nam, tài nguyên khoáng sản là sở hữu toàn dân và nguồn thu từ các hoạt động khai khoáng phải được sử dụng để phát triển đất nước. Điều này cũng giống như nguyên tắc của EITI, Hiến chương về tài nguyên (EITI1, 2009; Resource Charter, 2009).

Để thu được tối đa nguồn thu từ tài nguyên thiên nhiên, trong khi tiếp tục thúc đẩy các cải cách thể chế, Việt Nam cần tăng cường tính minh bạch của các thể chế công và trách nhiệm giải trình trong ngành công nghiệp khai khoáng.

Những hệ lụy của nền quản trị kém như thất thoát tài nguyên, tham nhũng, cạnh tranh bất bình đẳng...vv sẽ được giảm thiểu đáng kể nhờ vào một cơ chế minh bạch và trách nhiệm giải trình cao hơn, trong đó có sự tham gia và giám sát của xã hội dân sự.

Trong vài năm qua với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới và các nhà tài trợ khác, Việt Nam đã bước đầu tiếp cận với EITI. Tuy nhiên, quá trình này vẫn còn chậm trễ và vấn đề tham gia EITI chưa được quan tâm đúng mức. Bài học tham gia EITI từ rất sớm của Ghana đã mang lại nhiều ích lợi mà chúng ta có thể học được bởi lẽ việc tham gia vào sáng kiến này sớm, không  chỉ lượng tài nguyên thất thoát ít hơn mà năng lực giải trình của các cơ quan nhà nước và công ty khai khoáng được tăng lên đáng kể do nhận được sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật của ủy ban EITI cũng như các đối tác liên quan. Hơn thế nữa, việc tham gia sớm có thể tận dụng được các cơ hội đầu tư từ các nhà đầu tư quốc tế.

Để ngành công nghiệp khai khoáng phát một cách triển bền vững, đóng góp đáng kể vào công cuộc phát triển đất nước, cũng như góp phần vào nỗ lực tăng cường tính minh bạch, giảm thiểu tham nhũng; Việt Nam nên thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong ngành công nghiệp khai khoáng.

Trong bối cảnh phát triển thiếu bền vững hiện nay, tham gia sáng kiến EITI dường như là một lời giải đúng cho ngành công nghiệp khai khoáng của Việt Nam.

Nguồn: Vietnamnet, tuanvietnam