
Tin tức
Từ FDI ở ĐBSCL - suy nghĩ về liên kết vùng (21/06)
06/08/2010 - 25 Lượt xem
Đã có nhiều cuộc họp bàn, chỉ ra nguyên nhân và bàn biện pháp cải thiện, những hội nghị xúc tiến, diễn đàn kinh tế với nhiều hợp đồng, bản ghi nhớ con số hàng tỉ đô la Mỹ, nhưng con số thực tế vẫn cứ lạnh lùng.
Hơn một phần ba số vốn đầu tư nói trên tập trung vào Long An, tỉnh nằm gần TPHCM, một phần ba còn lại là Kiên Giang, nơi có đảo Phú Quốc nổi tiếng. Thành phố Cần Thơ, trung tâm của vùng, chỉ chiếm hơn 10% và mười tỉnh còn lại có không hơn 15%. Đây chỉ mới nói đến vốn đăng ký, còn thực hiện lại là việc khác. Rất nhiều dự án đăng ký, và khởi công hoành tráng nhưng sau đó là im lìm!
Vị trí thuận lợi và lợi thế riêng là hai yếu tố hấp dẫn đầu tư. Điều lưu ý là cả hai yếu tố này đều có thể tạo ra được.
Riêng trường hợp của Trà Vinh rất đáng để nghiên cứu, suy nghĩ. Là một tỉnh “vùng sâu, vùng xa”, từ năm 2006-2008 tỉnh thu hút được hơn 40 triệu đô la Mỹ, năm 2009 đầy khó khăn nhưng cũng thu hút được 15 triệu đô la Mỹ, gần bằng với Tiền Giang, tỉnh có vị trí giao thông thuận lợi hơn.
Ở Trà Vinh có trường hợp một nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghệ tự đào tạo cho mình nguồn nhân lực hàng trăm kỹ sư hóa thông qua hợp tác với Đại học Trà Vinh, một trường đại học hết sức non trẻ. Đó là Mỹ Lan, một công ty hóa chất đang trên đường trở thành tập đoàn. Nhà máy của công ty này là một trường hợp đầu tư vào công nghệ mà ngay ở Cần Thơ vẫn chưa có để so sánh.
Bất cứ nhà đầu tư nào cũng phải nhìn tới triển vọng phát triển mà họ tin là sẽ xảy ra chứ không phải là lời hứa. Trà Vinh trong tương lai sẽ không còn là một vùng quá xa xôi khi hệ thống giao thông được kết nối. Nhưng điều quan trọng với nhà đầu tư tâm huyết là tìm được cơ chế hợp tác. Trường đại học trong trường hợp này đã đóng vai trò quan trọng và cơ chế hợp tác tin cậy với lãnh đạo của tỉnh đã hình thành.
Với Cần Thơ, FDI vào thành phố sẽ gia tăng trong thời gian tới khi hệ thống hạ tầng phát triển. Vấn đề đặt ra là những ngành mà thành phố hướng tới trong thu hút đầu tư là gì?
Một báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Cần Thơ cho thấy: 70% số lao động tăng thêm trong quí 1-2010 là lao động chưa qua đào tạo. Nhu cầu quí 2 vào khoảng 4.000 thì lao động chưa qua đào tạo chiếm tới 66%. Trong số lao động thất nghiệp năm 2009 thì hơn 90% là lao động chưa qua đào tạo. |
Hiện tại thành phố có khá nhiều dự án khu dân cư quy mô bậc trung, nhưng thiếu các dự án công nghiệp và dịch vụ xứng tầm.
Trong khi đó các khu dân cư phát triển sớm đã đẩy giá đất lên rất cao, biến các khu công nghiệp được quy hoạch nằm bên cạnh lâm vào thế bí. Tiến lên rất khó, bởi giá đền bù quá cao. Còn cưỡng ép để đền bù giá thấp là không được.
Cho dù các khu công nghiệp này có thể đi vào hoạt động thì ngành nào sẽ được lựa chọn khi mà khu vực bao quanh là đô thị với các khu dân cư? Ngoài ra ở các khu công nghiệp phần nhiều là các dự án của nhà đầu tư trong nước, FDI của Cần Thơ chiếm chưa tới 10% tổng vốn đầu tư trong vùng.
Tất cả các khu công nghiệp trong vùng đều là khu công nghiệp “đa năng”, đều kêu gọi các dự án đầu tư tương tự nhau. Trước kia mỗi tỉnh có một vài khu công nghiệp, nay có tỉnh có 4-5 khu công nghiệp, hàng chục cụm công nghiệp. Với con số ấy cả vùng sẽ có 40-50 khu, hàng trăm cụm công nghiệp, nhưng cách làm, chiến lược thu hút đầu tư, dự án kêu gọi đầu tư thì cũng giống như nhau.
Trên bình diện tổng thể, đó là sự lãng phí nguồn lực từ vốn đầu tư cho đến lao động. Tạo ra những nhóm lao động giản đơn, giống như nhau và thiếu hụt lao động cũng giống như nhau ở tất cả các tỉnh. Nhà máy nào cũng kêu gọi tuyển dụng lao động giản đơn, từ trong tỉnh đến cả vùng, từ ĐBSCL đến miền Đông thì lao động giản đơn ở đâu cung cấp cho đủ? Nếu không may gặp khủng hoảng, không có đơn hàng thì hàng loạt lao động đó bị mất việc. Mặt khác, chỉ cần lao động giản đơn thì trường nghề đào tạo không có học viên để học.
Trong kinh tế có một quy luật hết sức quan trọng là hiệu quả kinh tế theo quy mô. Nếu không có những khác biệt quan trọng về công nghệ hay phân khúc thị trường thì quy mô nhỏ luôn kém sức cạnh tranh và rất dễ bị tổn thương khi yếu tố bảo hộ mất đi.
Thu hút đầu tư nhiều nhà máy như nhau ở 13 tỉnh, thành phố thì không dễ có nhà máy có quy mô lớn, và đó cũng chỉ là những nhà đầu tư nhỏ, ít vốn, không có công nghệ tốt. Có thể có một số kết quả nào đó trong ngắn hạn về thành tích đầu tư, giải quyết công ăn việc làm nhưng về dài hạn nó cản trở tăng trưởng, thậm chí gây khủng hoảng dây chuyền khi phải đối mặt với khó khăn khủng hoảng từ bên ngoài, và cả bên trong khi doanh nghiệp phải cạnh tranh và tái cấu trúc.
Có những dự án vốn đăng ký thì lớn nhưng nhiều năm cũng không thực hiện. Quan trọng là vốn giải ngân, nhưng phải là phần vốn mới được nhà đầu tư nước ngoài đưa vào, mới góp phần tạo nên lực mới. Nếu chỉ là vốn vay từ ngân hàng trong nước thì đó lại là sự giành giật tín dụng với các doanh nghiệp nhỏ, khát vốn đang hoạt động trong nước. Thu hút đầu tư trong trường hợp đó thực ra không giúp gì mấy cho phát triển nền kinh tế từ bên trong, trái lại còn chèn ép các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Mặt khác, tác động môi trường rõ ràng là không có biên giới. Tỉnh trên đầu nguồn có thể có nhiều thành tích về kinh tế, thu hút đầu tư nhưng tỉnh phía dưới phải gánh chịu hậu quả.
Có nhiều vấn đề lớn đang đặt ra: có cần nhiều khu công nghiệp và cụm công nghiệp ở một tỉnh hay không? Hay chỉ cần một khu công nghiệp xứng tầm là đủ. Các tỉnh trong vùng có cách nào ngồi với nhau xem lợi thế của mỗi tỉnh là gì để tập trung vào đó, các tỉnh khác thì làm khác đi. Một sự phân công hợp lý sẽ có kết cục cùng thắng và có lợi cho sự phát triển của đất nước. Với các khu, cụm công nghiệp đã có thì lấp đầy diện tích có nên là một chỉ tiêu giao nhiệm vụ và báo cáo thành tích hay không? Cơ chế nào để giảm tác hại đến môi trường?
Liên kết vùng đã từng được nêu lên, đã có ban chỉ đạo nhưng những khó khăn tiếp tục chồng lên, những vấn đề phức tạp hơn đặt ra còn nhiều hơn trước. Liên kết vùng giờ đây là một vấn đề lớn mang tầm quốc gia, cần được thể chế hóa.
Nguồn: TBKTSG
