Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Quyết sách phù hợp cho vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (16/07)

06/08/2010 - 26 Lượt xem

- Công tác thu thập dữ liệu và bảo vệ nguồn vốn FII phục vụ cho điều hành chính sách kinh tế vĩ mô hiện chưa thể thực hiện được một cách chính xác. Cơ quan chức năng chỉ kiểm soát được dòng vốn FII trên thị trường chứng khoán tập trung trên cơ sở cấp mã số giao dịch. Còn đối với việc tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường tự do (OTC) thì không kiểm soát được.

Dòng vốn FII vào hoặc ra đều phải qua tài khoản nằm ở các ngân hàng. Liệu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có thể kiểm soát được thông qua hệ thống tài khoản ngân hàng không, thưa ông?

- Ông Lê Văn Châu: Đối với NHNN, theo dõi lưu chuyển của FII liên quan tới đầu tư chứng khoán, cũng như hoạt động góp vốn, mua cổ phần đầu tư nói chung chưa được bóc tách từ lưu chuyển ngoại hối, bao gồm cả lưu chuyển vốn liên quan tới hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu, hay các hoạt động khác trên tài khoản vốn.

Như vậy phải chăng là do phân công trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong quản lý vốn FII chưa hợp lý?

- Đúng là chưa có sự phân định rõ ràng trong giám sát hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài và quản lý vốn FII giữa các cơ quan chức năng, cũng như thiếu vắng sự phân công và phối hợp, chia sẻ thông tin. Điều này hạn chế việc tham vấn, hoạch định chính sách để điều tiết vốn FII.

Phải nhấn mạnh là việc quản lý vốn FII hiện hoàn toàn thủ công, theo nguyên tắc giám sát từ xa, trên số liệu báo cáo theo kỳ của các thành viên thị trường. Do đó cơ sở dữ liệu về vốn FII không đầy đủ, chính xác và kịp thời.

Có lẽ những tồn tại mà ông vừa nêu là do lâu nay chúng ta chưa có một định hướng cho dòng vốn FII? Không ít người vẫn nhìn nhận FII là vốn ngắn hạn, thoắt vào thoắt ra, không mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế.

- Trong xu thế hội nhập quốc tế, bên cạnh hoạt động thương mại, dòng vốn đầu tư và nhân lực sẽ được khai thông. Đây không chỉ là quyền lợi, mà còn là trách nhiệm trong việc mở cửa thị trường để tiếp nhận dòng lưu chuyển này. Thách thức đối với cơ quan quản lý là giám sát được vốn FII và không nên ngăn cản nó bằng biện pháp hành chính.

Chúng ta thật sự đang thiếu định hướng rõ ràng về vốn FII, chính sách chưa đồng bộ nên quản lý nó chưa hiệu quả.

Ông có nghĩ là chúng ta vẫn đang quá thận trọng với tác động tiêu cực của vốn FII? Nên đang có một sự “phân biệt đối xử” giữa vốn FII và FDI (đầu tư trực tiếp)?

- Đối với vốn FDI, Việt Nam đã và đang có những chính sách, biện pháp cụ thể thu hút nó. Nhưng với vốn FII, thì chính sách nhằm tăng cường khả năng thu hút nó vẫn chưa được xây dựng chi tiết. Tâm lý chung về vốn FII là tương đối e dè, lo ngại trước những tác động tiêu cực. Việc thiếu định hướng rõ ràng trong quản lý, kiểm soát vốn FII cũng ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư nước ngoài.

Ông có thể nói rõ hơn không?

- Chưa có sự tách bạch rõ giữa vốn FII và FDI. Luật Đầu tư có đề cập đến hoạt động đầu tư gián tiếp, nhưng văn bản hướng dẫn thi hành chủ yếu tập trung vào FDI. Theo văn bản pháp lý hiện hành, nhà đầu tư nước ngoài là đối tượng điều chỉnh của cả hai luật: Luật Đầu tư và Luật Chứng khoán.

Nghĩa là vốn FDI được điều chỉnh bởi Luật Đầu tư, còn vốn FII thì theo Luật Chứng khoán?

- Cụ thể thì thế. Nhưng vấn đề ở đây là rất khó xác định khi nào một nhà đầu tư được điều chỉnh bởi Luật Chứng khoán, khi nào bởi Luật Đầu tư. Ngoài ra, quản lý nhà nước đối với FII được quy định rải rác trong khá nhiều văn bản do các cơ quan khác nhau ban hành, gây khó cho việc thực hiện. Chẳng hạn quy định ngoại hối đối với việc mua bán chứng khoán của nước ngoài do NHNN ban hành; tỷ lệ tham gia của nước ngoài vào thị trường chứng khoán do bộ Tài chính ban hành; hình thức đầu tư nước ngoài lại được quy định bởi Luật Đầu tư....

Tóm lại, có thể hiểu là vốn FII vào Việt Nam chưa nhiều là do bắt nguồn từ chính sách chưa hấp dẫn, thưa ông?

- Chính sách là một phần. Phần khác là thị trường tài chính chưa phát triển, thiếu gắn kết đồng bộ, tiềm ẩn tương đối rủi ro. Một khi thị trường tài chính minh bạch, sản phẩm đa dạng, cơ chế xác định giá chứng khoán vận hành theo nguyên tắc thị trường cạnh tranh, đảm bảo sự hợp lý trong giá chứng khoán, thì dòng vốn FII sẽ ổn định, giảm thiểu nguy cơ đào thoát vốn.

Ông vừa đề cập đến cơ chế xác định giá chứng khoán...

- Ý tôi là trong hệ thống tài chính hiện tại cơ chế xác định giá chứng khoán, thẩm định chất lượng tín dụng, chất lượng tín nhiệm, phát hành, giao dịch, đấu giá cổ phần hóa... chưa tuân thủ theo đúng nguyên tắc thị trường. Điều này làm méo mó giá trị hàng hóa trên thị trường, giảm sức hấp dẫn của TTCK và các mảng thị trường tài chính khác.

Ở thời điểm này, qua những điểm ông đã phân tích, chúng ta nên bắt đầu từ đâu để duy trì và có thêm dòng vốn FII?

- Để duy trì tốc độ phát triển cao cho nền kinh tế trong thời gian tới, cần khơi thông kênh huy động vốn qua TTCK, trong đó có dòng vốn nước ngoài. Tôi khẳng định vốn FII cần thiết cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên đồng hành với nó phải là các chính sách vĩ mô linh hoạt, đồng bộ, đảm bảo khả năng khống chế và kiểm soát rủi ro của dòng vốn này. Đây là vấn đề phức tạp và hầu như không thể có được những công cụ thống nhất để xử lý. Các quốc gia đang phát triển đều gặp phải khó khăn này. Bây giờ là lúc chúng ta cần nhanh chóng đưa ra quyết sách phù hợp trên nguyên lý thị trường và kinh nghiệm quốc tế.

Những cột mốc vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài

Giai đoạn 1991-1997: Tuy chưa có TTCK, FII đã vào Việt Nam từ những năm đầu thập niên 90. Thời gian này có 7 quỹ với số vốn khoảng 400 triệu đô la Mỹ, trong đó có 4 quỹ đại chúng niêm yết ở Anh, Ireland... Đây là những quỹ mạo hiểm, sẵn sàng chấp nhận rủi ro.

Sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ, giá chứng chỉ các quỹ này tăng và luôn cao hơn NAV (giá trị tài sản ròng). Hai năm 1996-1997 do tác động của khủng hoảng tài chính châu Á, giá chứng chỉ của 4 quỹ niêm yết giảm mạnh, mức chiết khấu từ 43,6-47,7% so với NAV. Lúc bấy giờ, số công ty cổ phần hóa còn ít. Suốt những năm 1992-1998 cả nước chỉ có 38 doanh nghiệp tư nhân được thành lập, 128 đơn vị được cổ phần hóa.

Giai đoạn 1997-2002: Khủng hoảng tài chính châu Á và tác động của nó. Việt Nam tuy ít bị ảnh hưởng, song đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng không vì thế mà sáng sủa hơn. Từ năm 1998-2002 không có quỹ đầu tư mới nào vào Việt Nam ra đời. Trái lại, các quỹ đua nhau rút vốn, giảm quy mô. 5/7 quỹ rút khỏi Việt Nam; một quỹ thu hẹp 90% quy mô; chỉ còn duy nhất quỹ Vietnam Enterprise Investment Fund (Veil) bám trụ.

Giai đoạn 2003 đến nay: Từ năm 2003 trở đi dòng vốn FII vào Việt Nam hồi phục, tăng dần từng năm và tăng đột biến vào năm 2006-2007. Báo cáo của Ngân hàng ANZ cho biết từ năm 2001-2006 vốn FII đạt khoảng 12 tỉ đô la Mỹ và năm 2007 đạt khoảng 5,7 tỉ đô la Mỹ.

Năm 2008 và đầu năm 2009, trước những khó khăn của nền kinh tế, dòng vốn FII có dấu hiệu chững lại và một phần rút ra. Từ cuối quí 2-2009, nó đảo chiều và quay trở lại nhưng không thật sự mạnh như mong đợi.

Hiện tại có chừng 35 quỹ đầu tư nước ngoài chuyên đầu tư vào Việt Nam, kể cả các quỹ thu nhập cố định, private equity (quỹ tư nhân), bất động sản với tổng NAV tính đến giữa tháng 7-2010 khoảng 4,5 tỉ đô la Mỹ. Không có số liệu chính thức về sự nắm giữ trái phiếu phát hành nội địa bằng tiền đồng của các nhà đầu tư nước ngoài. Lượng trái phiếu nắm giữ bởi nước ngoài cũng được giao dịch hàng ngày trên Hnx.


Nguồn: TBKTSG