
Tin tức
Trầy trật đổi mới doanh nghiệp nhà nước (22/07)
06/08/2010 - 23 Lượt xem
Vốn nhà nước vẫn chiếm ưu thế
Tính đến thời điểm 1-7-2010, Nhà nước còn nắm giữ 100% vốn ở 1.206 doanh nghiệp, trong đó có khoảng 900 doanh nghiệp đã chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên. Riêng 40 doanh nghiệp không đủ điều kiện để chuyển thành công ty TNHH một thành viên, sẽ được cơ cấu lại nợ để chuyển thành công ty cổ phần hoặc công ty TNHH hai thành viên trở lên.
Nếu không sắp xếp được theo các hình thức trên thì tiến hành bán doanh nghiệp hoặc phá sản. Như vậy, trong tháng 7 này, Việt Nam sẽ không còn DNNN như trước đây, mà chỉ còn công ty TNHH nhà nước một thành viên và công ty cổ phần hoạt động theo cùng mặt bằng pháp lý là Luật Doanh nghiệp (Huy Thắng, Chuyển đổi DNNN: không làm theo kiểu “bình mới, rượu cũ”, baodientu.chinhphu.vn, 6-7-2010).
Chỉ tính riêng tám tập đoàn và tổng công ty nhà nước lớn đã chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên thì vốn nhà nước (vốn điều lệ) do nhà nước nắm giữ toàn bộ đã lên tới 465.000 tỉ đồng, trong đó dầu khí: 177.000 tỉ đồng; Điện lực 110.000 tỉ đồng; Bưu chính viễn thông 72.000 tỉ đồng; Viễn thông quân đội 50.000 tỉ đồng; SCIC 19.000 tỉ đồng; Than - Khoáng sản 14.900 tỉ đồng; Công nghiệp tàu thủy 14.000 tỉ đồng; Hàng không 8.000 tỉ đồng.
Nếu kể cả gần 900 công ty TNHH nhà nước một thành viên còn lại thì vốn nhà nước tại DNNN ước tính sẽ lên tới khoảng 500.000 tỉ đồng, tương đương khoảng hai phần ba tổng vốn nhà nước có tại DNNN.
Số liệu trên cho thấy, qua mấy chục năm, từ năm 1998 đến nay, cuộc đại phẫu DNNN chưa mang lại kết quả mong muốn, vốn nhà nước tại DNNN vẫn chiếm tỷ trọng cao. Tuy số lượng DNNN được cổ phần hóa lớn (3.922/5.565 doanh nghiệp, chiếm trên hai phần ba số doanh nghiệp đã được sắp xếp), nhưng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp đã được cổ phần hóa lại chỉ chiếm duới một phần ba.
Như vậy, việc cổ phần hóa chỉ mới diễn ra ở những doanh nghiệp nhỏ và vừa, chưa làm mạnh với những doanh nghiệp lớn, cho dù theo Quyết định 38/2007/QĐ-TTg ngày 20-3-2007 của Thủ tướng Chính phủ, nhiều tập đoàn và tổng công ty lớn không thuộc diện nhà nước phải nắm giữ 100% vốn.
Cần tổng kết mô hình tập đoàn
Đến nay, nước ta đã có 12 tập đoàn kinh tế được thành lập: Dầu khí; Điện lực; Bưu chính Viễn thông; Viễn thông Quân đội; Hóa chất; Dệt may; Công nghiệp xây dựng; Phát triển nhà và đô thị; Công nghiệp tàu thủy; Công nghiệp than-khoáng sản; Công nghiệp cao su và Bảo Việt.
Tập đoàn được thành lập dựa trên quyết định hành chính hơn là quy luật tự nhiên về tích tụ và tập trung kinh tế.
Theo điều 18 và 19 Luật Cạnh tranh năm 2004, hành vi tập trung kinh tế bị cấm nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% thị trường liên quan, trừ một trong ba trường hợp: thứ nhất, việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế xã - hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ; thứ hai, một trong nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản; thứ ba, trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật.
Việc tập trung kinh tế nơi các tập đoàn có góp phần phát triển kinh tế - xã hội? Để trả lời câu hỏi này cần chú ý đến những sự khác biệt trong quan hệ so sánh với các thành phần kinh tế khác.
Chẳng hạn khi tính tỷ suất lợi nhuận so với vốn thì cần lưu ý rằng vốn DNNN thường không tính đến hoặc không tính đủ giá trị đất sử dụng. Hoặc khi đánh giá phần đóng góp của DNNN vào ngân sách, không thể bỏ qua một điều là phần lớn số thu thuộc về DNNN đang dựa trên việc khai thác lợi thế độc quyền và vị thế chi phối đối với nhiều sản phẩm, dịch vụ quan trọng của nền kinh tế như thuế tài nguyên của dầu khí, than và các tài nguyên khoáng sản khác; thuế nhập khẩu; thuế gián thu qua ô tô, rượu, bia, thuốc lá... chiếm tỷ lệ cao hơn các thành phần kinh tế khác mà phần này là đóng thay cho người tiêu dùng.
Cổ phần hóa chậm chạp Tại Quyết định số 1729/QĐ-TTg ngày 29-12-2006, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt danh sách các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải thực hiện cổ phần hóa giai đoạn 2007-2010. Đến nay, đầu quí 3-2010, trong danh sách 71 tập đoàn, tổng công ty nêu tại quyết định trên, có những tập đoàn, tổng công ty lớn chưa thực hiện cổ phần hóa như: Hàng không Việt Nam (2008); Giấy Việt Nam (2009); Lương thực miền Bắc (2009); Hóa chất (2010); Xi măng (2010); Xây dựng và phát triển hạ tầng (2009), Sông Đà (2010)... |
Như vậy, cần có đủ thông tin, số liệu mới có thể đánh giá chính xác song cho đến nay vẫn chưa có quy chế về báo cáo công khai của các tập đoàn, nên chưa đủ căn cứ để đánh giá.
Ở những nước phát triển, về mặt pháp lý người ta cấm hoặc hạn chế việc các tập đoàn phi tài chính sở hữu ngân hàng để bảo đảm rằng không có sự liên hệ mẹ/con thiếu minh bạch giữa công ty mẹ phi tài chính với ngân hàng mà công ty mẹ sở hữu.
Nhật và Hàn Quốc đều cấm tập đoàn của họ (Chaebol ở Hàn Quốc, Keiretsu ở Nhật) sở hữu ngân hàng. Ở Mỹ các ngân hàng thuộc tập đoàn (sở hữu 10% cổ phiếu, ảnh hưởng đến quyết định việc lựa chọn thành viên hội đồng quản trị, hoặc ảnh hưởng đến quyền quản lý hay chính sách của ngân hàng) đều phải đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của cơ quan giám sát tài chính của FED, đặc biệt liên quan đến tỷ lệ tín dụng ngân hàng cấp cho công ty mẹ/con.
Trong khi đó, hầu hết các tập đoàn kinh tế của ta đều có sở hữu ngân hàng như tập đoàn Dầu khí có Ngân hàng Dầu khí toàn cầu, tập đoàn Điện lực có Ngân hàng An Bình... Các tập đoàn này giao ngân hàng của mình đầu tư chéo vào các công ty con, nhất là các công ty con mới được thành lập hoạt động ngoài lĩnh vực kinh doanh chính, rất khó kiểm soát. Hơn nữa, việc cấp cấp tín dụng này là hành vi hạn chế cạnh tranh, không lành mạnh.
Từ những phân tích trên, cần có tổng kết mô hình hoạt động tập đoàn trong thời gian qua, tách các ngân hàng đang trực thuộc tập đoàn phi tài chính ra khỏi tập đoàn và Ngân hàng Nhà nước nên có quy định và thực hiện giám sát chặt chẽ việc cấp tín dụng giữa công ty mẹ thông qua ngân hàng trực thuộc cho công ty con. Các tập đoàn phải tự vay, tự trả thì mới nâng cao được tính tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn hơn là trông chờ Nhà nước vay cho và bảo lãnh vay.
Nguồn: TBKTSG
