
Tin tức
Chọn điểm tựa cho tăng trưởng (08/09)
08/09/2010 - 23 Lượt xem
Khó khăn nhất cho chính tập đoàn kinh tế nhà nước là, tới thời điểm này, mô hình hoạt động, cũng như các cơ chế liên kết nội bộ vẫn đang được áp dụng theo Nghị định 101/2009/NĐ-CP ngày 5/11/2009 về thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước.
Sự thuận lợi của mô hình thí điểm là tính linh hoạt của khung pháp lý, song cũng chính tính thí điểm khiến nhóm doanh nghiệp đang nắm giữ phần lớn nguồn lực của nền kinh tế rất dễ vượt qua ranh giới mong manh giữa thành công và thất bại trong hoạt động của mình, nhất là khi các chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của khu vực này đang dừng lại ở các khuyến nghị.
Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp tư nhân, dù nổi lên là khu vực có đóng góp lớn nhất vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) lại là khu vực có năng suất lao động rất thấp. Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh, nhưng không thuận chiều với quy mô vốn, khả năng tích luỹ, khả năng đầu tư công nghệ, trình độ quản lý… khiến năng suất lao động của Việt Nam tiếp tục ở mức rất thấp và chậm được cải thiện.
Ở đây, có lẽ nhắc tới nhóm tập đoàn tư nhân đang nổi lên như những doanh nghiệp, thương hiệu đầu tàu trong một số ngành, lĩnh vực. Chính sức sống và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp này đang tạo nên hiệu quả của Chương trình người Việt ưu tiên dùng hàng Việt. Ngay bản thân các tập đoàn tư nhân Việt
Tuy vậy, cũng phải thừa nhận rằng, đa phần các thương hiệu lớn nằm ở các ngành tăng trưởng thuần tuý nhờ khai thác, sử dụng tài nguyên bao gồm nông - lâm - ngư nghiệp và khai thác mỏ; các ngành lệ thuộc vào đầu vào nhập khẩu, gia công, chế biến có chi phí trung gian cao… Ngay cả các tập đoàn kinh tế nhà nước cũng tập trung khá nhiều nguồn lực vào các ngành này.
Bản thân các ngành này luôn chiếm tỷ trọng cao trong GDP, ước tính trung bình 30% trong GDP trong giai đoạn 1991-2008 và tăng lên 30,8% vào năm 2009. Trong khi đó, những ngành công nghiệp chế biến tăng trưởng nhờ sử dụng đầu vào là tài nguyên, bao gồm vật liệu xây dựng, chế biến gỗ, chế biến thực phẩm, phi kim loại màu… chiếm tỷ trọng ổn định, khoảng 6% trong GDP.
Như vậy, có thể thấy, cho đến thời điểm này, động lực của tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế vẫn là các ngành gia công, chế biến có chi phí trung gian cao, lệ thuộc vào đầu vào nhập khẩu, giá trị tăng thêm thấp, dễ gây ô nhiễm môi trường và tiêu tốn ngoại tệ. Cùng với một số bất ổn trong hiệu quả hoạt động của khu vực nhà nước, dường như lựa chọn điểm tựa cho tăng trưởng thực sự đang là câu hỏi lớn.
Có lẽ cũng phải nhắc tới quan điểm của James Riedels, chuyên gia kinh tế Dự án USAID/STAR - Việt Nam, người đang thực hiện Đề tài nghiên cứu "Toàn cầu hoá ở Việt Nam: đi đâu, về đâu", khi cho rằng, Việt Nam khó có thể đạt được kỳ vọng bước lên nấc thang cao hơn của chuỗi giá trị toàn cầu khi những lợi thế cạnh tranh của giai đoạn hiện tại (lợi thế cạnh tranh dựa trên khai thác tài nguyên và lao động rẻ), nấc thang đầu tiên mà Việt Nam đang đứng, chưa được khai thác, sử dụng hết.
Nguồn: Báo Đầu tư
