
Tin tức
“Cần những thay đổi chính sách quyết đoán để nâng cao vai trò của khu vực tư nhân” (09/09)
09/09/2010 - 17 Lượt xem
BỐI CẢNH THẾ GIỚI: HOA KỲ CẦN GÓI KÍCH CẦU MẠNH NỮA CHO HỒI PHỤC KINH TẾ TOÀN CẦU THẬT SỰ
· Trong đám hỏa mù của những tuyên bố chính sách trái ngược và tình trạng kinh tế tài chính thế giới rối beng, nhiều quan sát viên quốc tế thấy rõ đang có ít giải pháp cụ thể khả thi, do tình trạng đang ở “liquidity trap” của các chính sách tiền tệ của Mỹ và Nhật bản khó có thể dùng công cụ lãi suất hiệu quả khi nó đã ở mức quá thấp, và các chính sách tài khóa như giảm thuế hay chi tiêu công về giáo dục và hạ tầng vẫn phải là những biện pháp chính.
· Chính sách tài khóa bảo thủ theo bài thuốc quen thuộc của IMF có thể đúng cho một vài nước đơn lẻ bị khó khăn về cán cân thanh toán quốc tế, nhưng nếu đem áp dụng lan rộng trong nhiều nước lớn sẽ làm giảm mức chi tiêu và nhu cầu nhập khẩu toàn cầu, ảnh hưởng đến triển vọng xuất khẩu trung hạn và nền thương mại toàn cầu, nhất là của các kinh tế mới nổi như TQ và Việt Nam. Và đây sẽ là sự nhầm lẫn về chính sách áp dụng một cách tổng hợp (“the fallacy of composition”) như nhà kinh tế nổi tiếng Paul Samuelson đã từng cảnh cáo trong sách kinh tế nhập môn căn bản của ông.
· Cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu như dự đoán vẫn có ảnh hưởng kéo dài mặc dù tình hình của các xứ này có phần sáng sủa hơn. Nền kinh tế đầu tầu thứ hai của thế giới là TQ thì đang được làm “giảm nóng” để tránh tình trạng bong bóng. Do đó trông chờ nền kinh tế kích hoạt thật sự hiệu quả vẫn phải là đầu tầu Mỹ với những khó khăn nêu trên.
· Như dự báo tháng trước, giá chứng khoán thế giới đã giảm mạnh vào tháng 8, phản ánh nỗi lo sợ ngày càng tăng về khả năng phục hồi kinh tế toàn cầu hình chữ W thay vì chữ V như kỳ vọng vào đầu năm. Riêng ở Mỹ, chỉ số Dow Jones xuống 4,3% và Nasdaq tuột hẳn 6,2%. Tình trạng thị trường chứng khoán thường ảm đạm vào tháng 9 theo thông lệ, nhưng năm nay vào ngày đầu tháng 9 chỉ số DJ đã bật dậy mạnh mẽ lên 2,5% và Nasdaq lên mạnh hơn 3%, do quyết định mua vào của nhà đầu tư sau khi giá chứng khoán tháng 8 đã xuống quá thấp (theo thống kê các năm gần đây, chứng khoán thường tăng vào tháng 8).
· Ngược lại, do lãi suất dài hạn có thể giảm tiếp như theo đề nghị của nhóm PIMCO, triển vọng tiếp tục sáng sủa hơn cho thị trường trái phiếu Mỹ.
· Do chiều hướng tăng trưởng toàn cầu bớt sáng sủa, như dự đoán giá dầu giảm tới 8,9% và trở lại mức $72/thùng. Giá các kim loại cơ bản như đồng chì kẽm thiếc.. đều giảm xuống, cho hy vọng lạm phát sẽ tiếp tục ở mức rất thấp hay không tăng ở Mỹ vào các tháng cuối năm.
· Ngoại lệ nổi bật cũng được dự báo từ trước là giá vàng tiếp tục tăng 5,6% trong tháng 8 và vượt qua mức cao nhất là $1251/ounce do tâm lý các nhà đầu tư trên thế giới tìm chỗ “ẩn náu”, cùng với việc mua vào tiền Yen đẩy tiền này lên mức cao nhất là 84 yen ăn 1 đô la.
· Do không thể giảm lãi suất thấp hơn nữa, nếu chính sách nới lỏng lượng tiền (“quantitative easing”) của Fed được tiếp tục bằng cách giữ số nợ trái phiếu cao của Ngân khố Mỹ (đang ở mức 2,400 nghìn tỷ USD, tức là gần gấp 3 lần mức trước kỳ khủng hoảng nợ dưới chuẩn năm 2008) thay vì bán tống ra như dự định và lại còn có thể mua thêm trái phiếu tư nhân, mức dư thừa của tổng phương tiện thanh toán toàn cầu sẽ đẩy giá vàng tiếp tục tăng rất mạnh, lên các đỉnh cao mới trong tháng này và cả quý 4.
Tình hình vĩ mô cải thiện nhưng thị trường tài chính bất ổn
· Trước đây vào tháng 2-3 có dự báo lạc quan từ một hai công ty chứng khoán ở Tp. HCM là sẽ có “dòng tiền kép” trong nước từ ngân hàng sẽ tháo khoán và giới đầu tư cá nhân sẽ chạy vào TTCK, giúp VN Index phục hồi và có thể lên mức 600-700
· Thực tế lại diễn ra ngược lại, thay vào đó có “dòng tiền kép” gồm cả nguồn tiền từ nước ngoài và từ trong nước rút ra khỏi TTCK, khiến chỉ số VN Index xuống mức 420-450 như dự đoán trong báo cáo tháng trước.
Nguyên nhân tại sao? “Giải mã” các khó khăn của thị trường chứng khoán
Nguồn tiền từ nước ngoài vào TTCK ít hơn do:
- Khủng hoảng tài chính thế giới khiến các nguồn tiền cạn kiệt, nhất là từ các quỹ hedge funds
- Lo ngại về bất ổn tỷ giá của ĐVN
- Sự tin tưởng vào các quỹ đầu tư ở VN giảm bớt do tình trạng là từ 2009 các quỹ này có thành tích kém xa VN Index
Nguồn tiền từ trong nước ít hơn do:
- Sự dè dặt của giới đầu tư cá nhân và các quỹ tự doanh của các công ty chứng khoán do tình hình vĩ mô cũng như tình trạng pha loãng cổ phiếu trong năm nay
- Thiếu kích động TTCK như việc quá chậm trễ ban hành cơ chế giao dịch cổ phiếu T+2 được nhà đầu tư chờ đợi
- Các vấn đề kỹ thuật nội bộ của hệ thống ngân hàng được bàn thảo rộng rãi trong báo chí, như chỉ còn cho thời gian quá ngắn để thực hiện các quy định mới đã được ngân hàng trung ương thông báo đòi hỏi từ lâu nhưng thiếu áp lực hiệu quả cho việc áp dụng cho đến vài tháng vừa rồi : (i) việc tăng vốn điều lệ của các ngân hàng lên 3.000 tỷ ĐVN; (ii) đòi hỏi về trích lập dự phòng rủi ro chung là 0,75% mới bắt buộc áp dụng từ 15/5/2010; và (iii) thông tư 13 ngày 20/05/2010 đòi hỏi các ngân hàng tăng tỷ lệ an toàn tài chính (CAR) từ 8% lên 9%
· Tựu chung, các quy định này đều làm giảm thanh khoản của các ngân hàng, tăng chi phí và khiến các ngân hàng rút bớt phần cho vay chứng khoán
Các chính sách thay đổi được chờ đợi và nói đến nhiều trong giới kinh doanh và ngân hàng bao gồm:
- NHNN cần xét lại nhanh chóng việc áp dụng một số thông tư áp dụng các quy định mới nêu trên. TTCK trở nên sôi động trong 2 ngày giao dịch cuối tháng 8 là bằng chứng cho việc thị trường chờ đợi hành động này.
- Bộ Tài chính cần ban hành sớm cơ chế giao dịch cổ phiếu T+2 được chờ đợi
Vấn đề tỷ giá
· Mặc dù tỷ giá được điều chỉnh 2,1% vào ngày 18/8, áp lực mới lên tỷ giá lại xuất hiện (19.500 ĐVN/USD) do lo ngại mức tăng vọt của các khoản vay bằng USD sẽ gây ra mức cầu USD cao vào cuối năm để trả lại nợ ngân hàng.
· Thâm hụt ở cả hai cán cân căn bản là ngân sách và cán cân vãng lai quốc tế chưa cho thấy dấu hiệu cải thiện bền vững.
Hiện tại là các bế tắc trong cấu trúc của nền kinh tế
Tăng trưởng theo hướng tích cực
• GDP bình quân tăng trên 7% mỗi năm cho thập niên vừa qua
• Năm 2009, mặc dù kinh tế toàn cầu suy thoái, vẫn giữ được tăng trưởng mức 5,2%. Năm 2010, GDP có thể tăng vượt mục tiêu 6,5%
• Chính sách quản trị kinh tế vĩ mô thay đổi linh hoạt theo tình thế, từ chống lạm phát đến kích cầu
Các vấn đề cấu trúc đặt ra?
• Phát triển nhanh nhưng không bền vững, chính sách phải liên tục thay đổi hàng năm từ chống lạm phát sang kích cầu rồi ngược lại
• Nhưng từ đó cũng đặt ra vấn đề về khả năng đáp ứng chính sách kịp thời và kinh nghiệm của các cơ quan hữu trách, đặc biệt của NHNN và các Bộ Tài chính và Kế hoạch Đầu tư.
• Cũng cần tăng cường khả năng theo dõi và giám sát chính sách kinh tế tài chính của Quốc Hội
Cơ cấu nền kinh tế sau hai mươi năm đổi mới
· Những ưu điểm chính trong hai thập niên qua:
o Đổi Mới đã cởi trói được các “thành phần sản xuất” chủ yếu vốn bị bó chặt trong nhiều thập niên trước đây dưới chế độ bao cấp
o Việt Nam được hội nhập vào thế giới toàn cầu hóa từ nhiều năm nay và tăng xuất khẩu đáng kể, nhờ đó mô hình tăng trưởng dựa trên xuất khẩu áp dụng thành công trong nhiều nước châu Á cũng được theo đuổi với kết quả tốt ở VN
o Giá nhân công rẻ đã giúp cho cạnh tranh thương mại theo mô hình trên
- Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế từ 20 năm qua sau khi vận dụng hết khả năng trong thời gian đầu, đã bắt đầu giảm hiệu lực và đang kìm hãm sự tăng tốc cũng như hiệu quả sản xuất của nền kinh tế
- Mức tiết kiệm quốc gia tương đối cao do chính sách đầu tư công quá cao, dẫn tới sự kiện bắt buộc là đa số các thành phần dân cư có tỷ lệ tiêu thụ tương đối thấp, nhất là thành phần nông dân với mãi lực rất thấp.
- Tuy với mức GDP bình quân còn quá thấp ở Á châu, Việt
- Tỉ lệ tích lũy/GDP của VN và một số nước Á châu chọn lọc
- Việt
- Khi đầu tư quá cao, hiệu quả giảm bớt nhanh
Hậu quả của mức đầu tư công quá cao ở Việt
- ICOR tăng từ 4 lên 8 trong mấy năm gần đây, và rất cao so với các nước Á châu
- Bài học từ Vinashin: theo số thống kê thuần túy, con số chi tiêu được gọi là “đầu tư” của công ty này cũng đi vào các số tổng cộng cao của đầu tư công và của cả GDP cho các năm qua, nhưng hiệu quả đầu tư ra sao đã được làm rõ qua các phương tiện truyền thông với số nợ của Vinashin.
- Nền kinh tế phát triển không quân bình từ nhiều năm qua với vai trò đầu tư công quá lớn, nhất là vào các tích sản cố định, và có tác dụng “hất ra (crowding out)” các đầu tư cần thiết của khu vực doanh nghiệp tư nhân cho việc cải thiện hiệu quả nền kinh tế. Điều này rõ nhất trong các ưu đãi tín dụng ngân hàng cho DNNN.
- Mức tiêu thụ của dân chúng cũng tương đối thấp, nhất là mãi lực kém của khu vực nông thôn, cũng đã khiến nền kinh tế chuyển dịch cơ cấu chậm
- Cơ cấu sản xuất nặng về các hoạt động chế tạo hay các tài sản cố định và chậm phát triển về dịch vụ, nhất là trong khu vực tiêu thụ tư nhân.
- Thí dụ cụ thể nữa về việc phân bổ tài nguyên thiếu hiệu quả có thể thấy trong khu vực bất động sản là việc dư thừa nhiều căn nhà hay căn hộ cao cấp do một số chủ sở hữu vắng mặt nhưng không bán được do tình trạng thị trường đóng băng, trong khi đại đa số cư dân cần nhà ở lại không mua được vì thu nhập quá thấp.
KẾT LUẬN: Những vấn đề thay đổi cơ cấu đặt ra cho lộ trình chính sách trung hạn
- Thành phần lao động thành thị đang tạo áp lực đòi tăng lương để có “phần bánh” to hơn trong các kết quả đổi mới.
- Khu vực nông thôn cũng cần được tăng mãi lực để góp phần vào chiến lược tăng trưởng nội địa những năm tới lúc tiềm năng xuất khẩu trung hạn bị giới hạn do sự hồi phục chậm của kinh tế toàn cầu.
- Những cởi trói kinh tế ban đầu đã dần mất hiệu lực trong vài năm qua, ngay dù sau khi gia nhập WTO, do sự tiến hành chậm chạp của vấn đề tiếp tục cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
- Việc chú trọng vào các tài sản cố định hay các công trình xây dựng lớn tạo ra chỉ số ICOR quá cao của toàn nền kinh tế.
- Tỷ lệ tiêu thụ tư nhân/GDP tương đối thấp. Vì thế sự phát triển của cơ cấu sản xuất và dịch vụ cũng chậm lại, ngăn chặn phát triển bền vững cho khu vực kinh tế tư nhân.
Tóm lại, cho việc tái cấu trúc nền kinh tế trong 10 năm tới, sẽ cần những thay đổi chính sách quyết đoán để nâng cao vai trò của khu vực tư nhân, gồm cả tăng tỷ lệ tiêu thụ/GDP và tăng tỷ lệ đầu tư của tư nhân trong phân bổ tài nguyên quốc gia.
(*) Tham luận của TS. Phạm Đỗ Chí tại Hội thảo “Kinh tế Việt
Nguồn: Báo Đầu tư
