Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Hậu khủng hoảng: Thách thức song hành cùng cơ hội (10/9)

10/09/2010 - 25 Lượt xem

Từ thách thức điều hành các chính sách tiền tệ,  điều hành tỷ giá…

TS. Lê Xuân Nghĩa, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia cho rằng, thị trường tín dụng hiện đang gặp một số rào cản hành chính khiến mặt bằng lãi suất chưa thể giảm nhanh và mạnh như mong đợi. Cụ thể là với việc duy trì bơm tiền trên thị trường mở đều đặn trong 2 - 3 tháng qua khiến cho nguồn vốn trên thị trường khá dồi dào, nhưng các ngân hàng thương mại bị hạn chế bởi quy định hạn chế dùng vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng làm vốn tín dụng, khiến cho các ngân hàng đang thiếu vốn cho vay lại không thể tiếp cận nguồn vốn trên thị trường liên ngân hàng đang rẻ và dư thừa. Bên cạnh đó, điều lo ngại là các quy định tại Thông tư 13 ngày 20/5/2010 của Ngân hàng Nhà nước sẽ áp dụng từ ngày 1/10/2010 về tỷ lệ áp dụng so với nguồn vốn huy động cũng đang dấy lên mối lo ngại về sự khan hiếm tín dụng trong những tháng tới.

Tuy nhiên, TS. Lê Xuân Nghĩa cũng cho rằng, thời gian tới sẽ khó xảy ra bất ổn vĩ mô về tiền tệ bởi về hình thức, Việt Nam đã tự do hóa tài chính, nhưng trên thực tế, chúng ta đã hạn chế dòng tiền từ bên ngoài vào, kiểm soát được dòng vốn.

Cũng theo TS. Lê Xuân Nghĩa, rủi ro tài chính đáng kể nhất mà Việt Nam có thể gặp phải ở trung hạn là rủi ro về tiền tệ, cụ thể là vấn đề tỷ giá hối đoái, khi mà sức ép tỷ giá đang gia tăng từ nhiều phía như thâm hụt cán cân vãng lai lớn; tài sản ngoại tệ ròng của hệ thống ngân hàng giảm mạnh. Mặt khác, những yếu tố về phục hồi chậm của kinh tế thế giới có thể khiến cho dòng vốn đổ vào Việt Nam yếu đi, kỳ vọng phá giá tăng lên, đô la hóa trầm trọng hơn và cán cân thanh toán quốc tế yếu đi.

… đến thách thức về củng cố niềm tin

Nhìn nhận ở góc độ khác, GS.TS. Trần Ngọc Thơ Đại học Kinh tế TP.HCM cho rằng, niềm tin hệ thống, tức là niềm tin vào chính phủ, quốc hội, hệ thống tài chính mà ngân hàng là trung tâm, và phương thức sản xuất, là điều tối quan trọng trong quyết sách của các nước trong đó có Việt Nam. “Việt Nam dù không rơi vào tâm bão khủng hoảng kinh tế toàn cầu, song các chính sách, luật lệ cũng cần phải lấy niềm tin hệ thống làm đích đến để hướng đến một nền kinh tế tăng trưởng bền vững và nhân bản hơn”, GS.TS. Trần Ngọc Thơ bày tỏ quan điểm.

Cũng theo GS. TS Trần Ngọc Thơ, chính sách, chủ trương có thể đúng về kinh điển song cần phải đặt lên bàn cân hậu quả của niềm tin sụt giảm. “Chẳng hạn, lúc nền kinh tế đang suy thoái mà cứ nhất quyết cho rằng chính sách lãi suất phải đảm bảo thực dương là quá máy móc. Hay như việc tính toán tăng tỷ giá 2% vào tháng 8/2010 vừa qua được một số nhà hoạch định chính sách tài chính tiền tệ cho là có cơ sở vững chắc do đã dựa vào mô hình kinh tế lượng cũng là một trường hợp máy móc khác”, GS. TS Trần Ngọc Thơ nói và cho rằng, tính không nhất quán trong phương thức điều hành chính sách cũng là nguyên nhân gây suy giảm lòng tin.

 “Một số quyết định chính sách ở nước ta thường để lại dấu ấn rất rõ về niềm tin bị hao hụt ít nhiều. Chẳng hạn hiệu ứng “lạm phát do tâm lý” do tăng tỷ giá, lãi suất, giá xăng dầu, điện nước…là một ví dụ. Dường như những vấn đề liên quan đến niềm tin hệ thống đã không được những nhà làm chính sách chú ý đúng mức. Do vậy, muốn có một chính sách hướng đến niềm tin thì không chỉ bằng lời nói, hoặc hô hào, hoặc chỉ bàn thảo trong phạm vi hẹp. Để nhận được sự đồng thuận của công chúng, cần phải có không gian để niềm tin hệ thống bộ lộ đối với những chủ trương và quyết sách lớn”, GS. TS Trần Ngọc Thơ nhấn mạnh.

Ông Nguyễn Văn Liệt, Phó tổng giám đốc Công ty Cổ phần chứng khoán Chợ Lớn

Cần một chính sách thu hút đầu tư dài hạn và nhất quán

Gần đây có một số quan điểm lo ngại về việc Việt Nam sẽ bị khủng hoảng kép, thậm chí xuất hiện quan điểm bi quan về Việt Nam có thể trở thành Hy Lạp thứ hai của châu Á. Xuất phát từ văn hóa Việt Nam, tôi tin tưởng rằng Chính phủ Việt Nam sẽ không để xảy ra sự bất ổn kinh tế khủng khiếp như vậy. Việt Nam đang đi là chậm mà chắc. Tuy nhiên, cũng cần hiểu một điều rằng, kinh tế Việt Nam vẫn chưa thực sự ổn định. Điển hình dễ nhận thấy là chính sách kinh tế Việt Nam thay đổi liên tục. Lúc thì nới lỏng, lúc thì thắt chặt. Hai năm qua chúng ta rất tự hào về sự ứng biến này của các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, sự linh hoạt và mang tính ngắn hạn này dẫn đến một nền kinh tế không ổn định. Do đó, để tăng tính tin tưởng cho nhà đầu tư nước ngoài hiện nay, việc cần làm là Việt Nam cần có một tầm nhìn dài hạn cho chính sách phát triển kinh tế của mình.

Một dẫn chứng điển hình nhất là câu chuyện tỉnh Đà Lạt đã không nhất quán trong chính sách thu hút đầu tư của mình và thay đổi quyết định của chính mình khiến Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai phải đi “kiện” tỉnh. Đây là một dẫn chứng không tốt đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi họ nhìn vào môi trường đầu tư Việt Nam, chưa kể Hoàng Anh Gia Lai là doanh nghiệp trong nước mà đã bị “khó khăn” như vậy. Doanh nghiệp nước ngoài sẽ rất lo ngại về tính thay đổi liên tục này. Hỗ trợ cho doanh nghiệp là hỗ trợ ở chỗ phải nhất quán từ pháp lý, triển khai dự án, điều hành kinh tế…

Ông Lý Xuân Hải – Tổng Giám đốc Ngân hàng ACB

Cơ hội Việt Nam sau khủng hoảng

Trước đây, khi gia nhập WTO, nhiều người lo ngại các doanh nghiệp ngân hàng nước ngoài nhảy vào Việt Nam thì ngân hàng Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn. Thực tế, tài chính ngân hàng đã mở cửa vài năm qua nhưng các ngân hàng nước ngoài không đe dọa cho ngân hàng nội. Tất nhiên, có một lý do là các ngân hàng nước ngoài vẫn còn lo giải quyết chuyện của họ ở các thị trường khác nên giờ thì họ vẫn chưa vào. Dưới góc nhìn của tôi về hậu khủng hoảng, tôi nhận thấy đây là cơ hội doanh nghiệp Việt Nam. Trung Quốc đã làm rất tốt chuyện này. Sau khủng hoảng, Trung Quốc dường như càng ngày càng mạnh hơn.

Làm doanh nghiệp kinh doanh, chúng tôi chịu sức ép lớn từ dự báo. Trong lĩnh vực tài chính, chúng tôi cần một số thông số để dự báo, nhất là các vấn đề rủi ro trong lĩnh vực tài chính. Nhưng hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có các bộ chỉ số, thước đo hay những công cụ cần có để lượng hóa các vấn đề trong tài chính. Tài chính là hàn thử biểu của nền kinh tế nên nếu chúng ta có những biện pháp hoặc công cụ để dự báo như vậy thì sẽ dễ dàng hơn trong việc hoạch định chính sách, điều hành hệ thống tài chính và kinh tế nói chung.


Nguồn: Báo Đầu tư