
Tin tức
Nobel Kinh tế 2010: Khi “việc cần người” không gặp “người cần việc” (12/10)
12/10/2010 - 54 Lượt xem
Trong khi thế giới còn đang lê từng bước thoát khỏi cơn suy thoái và thất nghiệp tăng cao, giải thưởng Nobel kinh tế năm nay đã được trao cho ba nhà nghiên cứu với công trình giải thích về "lực ma sát thị trường" (market frictions) đối với sự vận hành của nền kinh tế.
Các nhà khoa học đoạt giải - Peter Diamond, Dale Mortenson và Christopher Pissarides - đã có những đóng góp cơ bản giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về mối quan hệ cung - cầu dưới tác động của các chi phí giao dịch và tìm kiếm.
Lý thuyết "tìm kiếm và trùng hợp" (search and match) của họ nêu rõ, thị trường thường không có đủ người mua và người bán, những người về nguyên tắc có thể thống nhất với nhau về giá cả; những người mua và người bán này còn phải tìm kiếm nhau và quyết định có đi đến một giao dịch hay không thay vì tiếp tục chờ đợi một đối tượng khác phù hợp hơn.
Nghiên cứu phát hiện, các giao dịch có thể không tự xảy ra dù sau một quá trình tìm kiếm tốn kém và mất thời gian. Kết quả thị trường có thể là cung và cầu gặp nhau một cách hoàn hảo, hoặc không hoàn hảo hay thậm chí không gặp nhau.
Thử lấy một vài ví dụ về một thị trường nơi người mua và người bán không phải lúc nào cũng liên hệ trực tiếp với nhau. Trên thị trường lao động chẳng hạn, chủ lao động muốn tìm kiếm người làm và công nhân cũng muốn tìm việc làm. Vì quá trình tìm kiếm đòi hỏi thời gian và nguồn lực, nên nó tạo ra những ma sát trên thị trường.
Đối với những thị trường đòi hỏi quá trình tìm kiếm như thế, nhu cầu của một số người mua sẽ không được đáp ứng, trong khi một số người bán không thể bán được như mong muốn. Đồng thời, ở đây sẽ xuất hiện cả tình trạng nhiều "việc cần người" và nhiều "người cần việc" (thất nghiệp) trên thị trường lao động.
Việc người lao động và việc làm không tìm được đến với nhau có nghĩa là các kết quả của thị trường lao động có thể không hiệu quả. Thất nghiệp luôn hiện hữu ngay cả khi có những lao động sẵn sàng làm việc tại mức lương người sử dụng lao động sẵn sàng trả.
Nghiên cứu này đã giúp làm sâu sắc thêm các phân tích của các nhà kinh tế về nguyên nhân thất nghiệp và tính hiệu quả trong các chính sách của chính phủ nhằm hạn chế thất nghiệp. Tính đúng đắn trong công trình của các tác giả thể hiện qua tỷ lệ thất nghiệp cực cao sau khủng hoảng tài chính.
Ví dụ, ở Mỹ, nhiều người hiện thất nghiệp từng làm việc trong ngành xây dựng, ngành đã sụp đổ cùng với bong bóng bất động sản. Chi phí tìm kiếm và lựa chọn là những nhân tố quan trọng quyết định khả năng sớm hay muộn họ sẽ tìm được việc trong các lĩnh vực khác.
Các nhà kinh tế đạt giải năm nay đã xây dựng lên một khuôn khổ lý thuyết cho thị trường tìm kiếm. Peter Diamond phân tích nền tảng của thị trường tìm kiếm. Dale Mortensen và Christopher Pissarides mở rộng lý thuyết trên và ứng dụng vào thị trường lao động. Mô hình của các nhà kinh tế này giúp chúng ta hiểu được cách thất nghiệp, vị trí tuyển dụng và lương bổng bị tác động ra sao bởi các quy định và chính sách kinh tế.
Từ đây có thể giải thích được mối quan hệ thuận chiều giữa chính sách hay các quy định trợ cấp thất nghiệp với việc làm và sa thải. Một kết luận là từ công trình này là, tỷ lệ thất nghiệp tăng theo tỷ lệ thuận với mức trợ cấp thất nghiệp và nếu trợ cấp thất nghiệp cao thì thời hạn để một người bị sa thải trở lại thị trường lao động cũng sẽ càng dài.
"Lý thuyết tìm kiếm" đã được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực bên cạnh thị trường lao động. Công trình của ba nhà kinh tế này đã được ứng dụng vào một loạt các thị trường, bao gồm thị trường nhà đất, sản phẩm tài chính và thậm chí cả thị trường lựa chọn hôn nhân.
Ví dụ, trên thị trường nhà đất, số lượng nhà bán thay đổi theo thời gian, cũng phải mất thời gian để người mua tìm được nhà và các bên đi đến thỏa thuận về giá. Lý thuyết tìm kiếm còn có thể sử dụng để nghiên cứu các vấn đề liên quan tới chính sách tiền tệ, kinh tế công, kinh tế tài chính, kinh tế khu vực, và kinh tế gia đình.
Nhưng ứng dụng quan trọng nhất của lý thuyết của ba nhà kinh tế đoạt giải năm nay vẫn là trên thị trường lao động.
Nguồn: VNR 500
