
Tin tức
Vẽ lại bản đồ kinh tế (13/10)
13/10/2010 - 22 Lượt xem
Hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng thương mại phát triển mạnh theo chiều rộng, nhưng hiệu quả thúc đẩy kinh tế phát triển thấp chính là:
- Thứ nhất, trong khi phần đóng góp của nông nghiệp cho nền kinh tế liên tục giảm, còn đóng góp của khu vực dịch vụ chỉ có thể tăng từng bước theo đà tăng của khu vực kinh tế thực, thì công nghiệp của nước ta lại ngày càng bất cập.
Cụ thể là việc ồ ạt đầu tư vào các khâu hạ nguồn nhằm mục tiêu “ăn xổi” đã dẫn đến tình trạng càng phát triển, nền kinh tế càng phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu cơ bản cũng như nguyên phụ liệu của các nước trong khu vực. Vì vậy, mục tiêu chuyển sang xuất siêu của thập kỷ này không thực hiện được. Tình trạng nhập siêu kéo dài một nửa thập kỷ vừa qua chỉ là hệ quả tất yếu.
- Thứ hai, trong khi không ít ngành công nghiệp phát triển theo kiểu không có gốc như vậy, thì ngược lại, cũng có không ít những loại nguyên liệu khai thác trong nước, cũng như sản phẩm nông nghiệp, được sản xuất trên quy mô lớn lại chủ yếu để phục vụ xuất khẩu thô nên hiệu quả kinh tế không cao.
Nói một cách hình ảnh, cả “đầu tàu xuất khẩu” lẫn “đầu tàu thương mại trong nước” của Việt Nam đều to và chạy nhanh, nhưng chỉ kéo theo rất ít “toa hàng made in Vietnam”, mà ngược lại, lại tích cực kéo theo các “toa hàng made in ASEAN + 3”, cho nên tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển đều bị hạn chế.
Ngành dệt may là thí dụ điển hình trên phương diện này. Sự phát triển của ngành công nghiệp mũi nhọn này đã bắt đầu từ những năm 1980 và trong quá trình phát triển đó có không ít lần chúng ta quyết tâm kéo dài chuỗi giá trị: trồng bông, kéo sợi, dệt, nhuộm, may, cũng như các ngành công nghiệp phụ trợ khác để không chỉ đáp ứng các nhu cầu trong nước, mà còn tiến mạnh ra thị trường thế giới. Thế nhưng chỉ riêng việc cây bông vải nước ta rớt khỏi vị trí cây công nghiệp đầu bảng từ rất lâu và chiếm vị trí thứ bảy trong “làng nhập khẩu bông thế giới” đủ nói lên tất cả.
Trong quá trình phát triển đó, xét dưới góc độ địa kinh tế, thì một nước càng phát triển, ngành công nghiệp và dịch vụ càng tập trung vào một số địa bàn. Việc hàng loạt các doanh nghiệp được hình thành trong những năm gần đây tập trung tại khu vực đô thị, trong đó đại đa số là tại các đô thị lớn là một thực tế.
Điều này có nghĩa là, khu vực nông thôn nước ta cho đến nay về cơ bản vẫn đứng ngoài làn sóng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Người dân khu vực này chỉ được hưởng lợi rất ít từ làn sóng phát triển này, cho nên việc ồ ạt di cư về các đô thị lớn cũng là điều dễ hiểu.
Trong khi đó, tuy là một quốc gia nghèo về tài nguyên đất đai nói chung, đặc biệt là đất nông nghiệp, nhưng chúng ta đang sử dụng phung phí và không hiệu quả. Trong cuộc đua phát triển giữa các địa phương, các khu, cụm công nghiệp mọc lên khắp nơi, trong đó các tỉnh, các huyện, thậm chí cả các xã ở vùng đồng bằng càng đi tiên phong. Kết quả là các vựa lúa của nước ta được hình thành qua nhiều ngàn năm phát triển đã bị biến dạng rất nhanh. Đây nếu không phải là hiện tượng hiếm trên thế giới, thì ít nhất cũng không phải là điều mà các cường quốc kinh tế như Nhật hoặc Đức đã làm trong lịch sử công nghiệp hóa mấy trăm năm của họ.
Do vậy, vấn đề đặt ra cho chúng ta để phát triển bền vững không chỉ trong thập kỷ sắp tới, mà cho cả chặng đường dài sau này, là phải lựa chọn “đáp án” cho không ít những câu hỏi mang tầm chiến lược.
Chẳng hạn, đó là sử dụng nguồn tài nguyên đất đai nói chung, đặc biệt là đất nông nghiệp, như thế nào để đáp ứng nhu cầu không chỉ về nông sản mà cả phát triển công nghiệp - chắc chắn sẽ còn tăng rất mạnh trong cả chặng đường dài sau này? Trong điều kiện tài nguyên đất đai có hạn, số lượng nông dân vẫn còn rất đông, bên cạnh những loại nông sản đã ghi danh Việt Nam trên thị trường thế giới, còn có thể phát triển những mặt hàng nào, cái nào sẽ phải nhập khẩu? Tiếp theo, cần tính toán xem nền công nghiệp của chúng ta sẽ tồn tại bằng nguồn nguyên liệu nào, đặc biệt là những ngành công nghiệp chế biến nào sẽ dựa trên cơ sở nguồn nguyên liệu nông sản trong nước? Bên cạnh đó, phát triển công nghiệp và dịch vụ ở đâu để có thể mang lợi ích thỏa đáng cho dân cư các vùng, miền của đất nước?
Như vậy, để phát triển bền vững, thực hiện thành công mục tiêu trở thành nước công nghiệp, phải chăng đã đến lúc chúng ta phải “vẽ lại” cả bản đồ công nghiệp lẫn nông nghiệp của đất nước để nông dân nước ta không còn phải chịu cảnh hầu như “đứng bên lề đường công nghiệp hóa” đất nước như hiện nay.
Nguồn: TBKTSG
