Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Bước chuyển tư duy nhận thức (15/10)

15/10/2010 - 20 Lượt xem

Thắng lợi là bởi, ở giai đoạn 2008-2009 – khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới ở thời kỳ tồi tệ nhất, vẫn có gần 200.000 doanh nhân cam kết bỏ tiền của, chunng sức cho sự nghiệp kinh doanh. Chính họ đã góp phần quan trọng trong sự phát triển ngày càng rộng của khu vực kinh tế tư nhân, khẳng định vai trò là một trong những động lực thực sự cho phát triển kinh tế của Việt Nam.

Số lượng doanh nghiệp nhiều, số doanh nhân đông đảo trong khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn phát triển vừa qua đã chung tay với các khu vực doanh nghiệp khác đáp ứng những nhu cầu cấp bách của nền kinh tế về việc làm, tạo thu nhập, tham gia vào sản xuất hàng xuất khẩu…

Thậm chí, nhiều đánh giá còn khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đang gánh trọng trách nặng nề nhất trong thực hiện mục tiêu tạo 1,6 -1,7 triệu việc làm mỗi năm. Cùng với đó, những con số về hiệu quả đầu tư, chỉ số suất đầu tư để tạo ra một việc làm của khu vực kinh tế tư nhân tốt hơn khá nhiều so với các khu vực doanh nghiệp khác.

Tuy nhiên, sự phát triển rầm rộ về số lượng vẫn chưa gắn được với chất lượng, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân. Có thể mục tiêu thúc đẩy nhanh về số lượng trong các kế hoạch phát triển doanh nghiệp được tập trung quá nhiều, lu mờ đi những con số, chỉ tiêu định hướng phát triển về chất lượng của các doanh nghiệp là  nguyên nhân khiến sức bật của khu vực kinh tế này khá yếu ớt.

Sau nhiều năm, doanh nghiệp tư nhân chủ yếu hướng vào các ngành, lĩnh vực thâm dụng lao động, c”ng nghệ thấp với tỷ lệ gần 75%. Số doanh nghiệp tư nhân trong ngành c”ng nghệ cao hơn, sử dụng nhiều vốn như tài chính, ngân hàng, giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học, dịch vụ… chỉ chiếm gần 20%. Tuy nhiên, chỉ có 0,46% doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực đào tạo; 0,46% doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực khoa học và vẻn vẹn 0,03% doanh nghiệp tư nhân có mặt trong lĩnh vực y tế… Trong lĩnh vực khoa học và c”ng nghệ - những lĩnh vực then chốt quyết định sự tăng trưởng của năng suất lao động, số lượng doanh nghiệp tư nhân cũng chiếm ở mức rất thấp -  0,03% với 54 doanh nghiệp.

Nếu nhìn vào những tỷ lệ này, có thể đặt câu hỏi lớn về hiệu quả của các chính sách xã hội hoá trong các ngành y tế, giáo dục – đào tạo. Thị trường c”ng nghệ với sự đồng bộ về cơ sở pháp lý, khá nhiều chính sách khuyến khích được đưa ra từ những năm đầu trong kế hoạch 5 năm cũng chưa đủ để tạo được sự cải thiện. Phải chăng, những chính sách khuyến khích, thu hút nguồn lực đầu tư tư nhân trong những lĩnh vực này chưa hấp dẫn, thúc đẩy được sự nhiệt tình của doanh nhân.

Rõ ràng, sự nhiệt tình, tâm huyết cũng như khát vọng thành danh của giới doanh nhân Việt Nam là thế mạnh, động lực rất lớn để doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh. Các doanh nhân lớn, doanh nghiệp lớn là cơ sở để cải thiện chất lượng doanh nghiệp tư nhân cả về quy m” và năng lực.

Tuy nhiên, với những điều kiện lịch sử trong phát triển kinh tế Việt Nam, sự non trẻ của cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam về chặng đường phát triển, nội lực chưa đủ. Sự lớn lên nhanh hơn của doanh nghiệp Việt Nam rất cần sự hậu thuẫn lớn về tư duy nhận thức, chính sách cũng như m”i trường kinh doanh thuận lợi.

Kh”ng chỉ những chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp lớn mạnh lên, chính sách để doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tạo cơ hội để điều chỉnh, tận dụng các cơ hội mới cũng cần được rõ ràng... Trên thương trường, thất bại của một doanh nghiệp, một thương vụ là cơ hội cho sức sáng tạo tiềm tàng của doanh nghiệp, doanh nhân khác.

Nguồn: Đầu tư