
Tin mới
Công nghiệp lấy lại “phong độ” (06/12)
06/12/2010 - 25 Lượt xem
Quy mô giá trị sản xuất công nghiệp năm 2008 tính theo giá so sánh đã cao gấp 10 lần năm 1991- tức là bình quân một năm đã tăng 13,64%. Đó là tốc độ tăng cao, tăng liên tục, tăng trong thời gian dài, mà trước đó chưa bao giờ đạt được và các ngành, lĩnh vực khác không đạt được trong thời gian tương ứng.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới cùng với hiệu ứng phụ của việc kiềm chế lạm phát ở trong nước đã tác động tiêu cực, làm “ngắt quãng” nhịp tăng này, tăng trưởng giá trị sản xuất của công nghiệp năm 2009 xuống đáy sâu nhất so với các nhóm ngành khác, kéo theo số lao động của ngành này mất và thiếu việc làm nhiều nhất. Nhanh chóng thoát đáy, vượt dốc Với các biện pháp tích cực và đồng bộ, trong đó có biện pháp cấp bù lãi suất, ngành công nghiệp đã nhanh chóng thoát đáy, vượt dốc đi lên nhưng cả năm 2009 chỉ đạt 7,6%. Tuy cao lên qua các tháng, các quý, nhưng tốc độ tăng trên chỉ bằng hơn một nửa tốc độ tăng của năm trước, thấp nhất từ năm 1991 đến 2008. Từ tháng 8/2009, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp đã trở lại “phong độ” hai chữ số và đạt liên tục cho đến nay. Tính chung 11 tháng năm 2010, tốc độ tăng này đã đạt 13,8%, cao gấp đôi tốc độ tăng của cùng kỳ năm trước; ước cả năm tăng bằng với tốc độ tăng (13,9%) của năm 2008 và cao hơn tốc độ tăng bình quân năm thời kỳ 1991- 2008 (13,64%). Như vậy, tăng trưởng công nghiệp nếu năm trước xuống đáy sâu nhất, thì năm nay đã phục hồi sớm nhất, nhanh nhất so với các ngành, lĩnh vực khác, cũng như toàn bộ nền kinh tế. TỐC ĐỘ TĂNG/GIẢM GIÁ TRỊ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP 11 THÁNG 2010 (%) Nguồn: Tổng cục Thống kê
Tăng trưởng công nghiệp đạt được ở cả ba khu vực. Khu vực Doanh nghiệp nhà nước tăng cao nhất tính từ năm 2005 đến nay, trong đó Doanh nghiệp nhà nước trung ương tăng cao nhất tính từ năm 2006 và đã đạt trở lại mức hai chữ số; Doanh nghiệp nhà nước địa phương đã không còn bị giảm như 5 năm trước đó. Khu vực ngoài nhà nước tiếp tục tăng hai chữ số, cao hơn tốc độ tăng của năm trước và tăng cao hơn tốc độ chung. Mặc dù dầu mỏ và khí đốt giảm 2,7%, nhưng do các ngành khác tăng khá cao (19,4%), nên toàn bộ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã phục hồi được tăng trưởng hai chữ số và tăng cao nhất trong 3 khu vực. Trong 3 ngành công nghiệp cấp I, trong khi công nghiệp khai thác giảm, công nghiệp điện, ga, nước tăng không cao, thì công nghiệp chế biến- chiếm tỷ trọng lớn nhất- đã tăng khá cao, góp phần kéo tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp. Trong 34 loại sản phẩm chủ yếu được thống kê, có 28 loại tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó có 11 loại tăng cao hơn tốc độ chung. Tăng trưởng công nghiệp đã góp phần làm cho tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế cao lên qua các quý và có khả năng vượt kế hoạch đề ra. Tăng trưởng của công nghiệp không những ngăn chặn được tình trạng mất và thiếu việc làm trong năm trước mà còn thu hút thêm được việc làm mới (tháng 11 so với tháng trước, số lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tăng 0,6%). Nguyên nhân từ đầu tư và tiêu thụ Tăng trưởng công nghiệp đạt được do nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân quan trọng là vốn đầu tư- yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế nói chung và tốc độ tăng trưởng công nghiệp nói riêng. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước sau 11 tháng nhờ ứng trước vốn dự toán ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ năm 2011 nên thực hiện đã vượt mức kế hoạch cả năm. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 11 tháng ước đạt gần 10 tỷ USD, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó các ngành công nghiệp thực hiện được nhiều nhất. Có nguyên nhân do tiêu thụ tăng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 25%, nếu loại trừ yếu tố tăng giá tiêu dùng (bình quân 11 tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước tăng 8,96%), thì vẫn tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của cùng kỳ năm trước (14,7% so với 10,8%). Riêng chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế tạo 10 tháng năm nay so với cùng kỳ tăng 10,8%, trong đó một số ngành tăng cao, như đồ uống không cồn, sản phẩm bơ, sữa, gạch ngói, gốm sứ không chịu lửa, các sản phẩm khác bằng kim loại, bia, xi măng, sản xuất giày dép. Xuất khẩu tăng khá cao (24,5%); tăng ở cả 2 khu vực, trong đó khu vực có vốn ĐTNN tăng cao hơn (27% so với 21,6%); nếu không kể dầu thô bị giảm mạnh (giảm 22,6%), thì các ngành khác của khu vực này tăng rất cao (tới 40,3%). Trong việc tiêu thụ sản phẩm, đáng lưu ý là giá tiêu thụ tăng khá. Chưa thể thỏa mãn Thoát đáy, vượt dốc đi lên, phục hồi phong độ nhanh nhất của công nghiệp là một tin vui, nhưng chưa thể chủ quan thỏa mãn. Bởi chất lượng tăng trưởng vẫn còn thấp; công nghiệp phụ trợ chậm phát triển, tính gia công còn cao, nên giá trị gia tăng thấp, nhập siêu còn lớn. Ngay cả về mặt số lượng, một số loại sản phẩm công nghiệp còn tăng thấp, thậm chí một số loại còn bị giảm so với cùng kỳ. Tăng thấp có vải dệt từ sợi bông, vải dệt từ sợi tổng hợp hoặc sợi nhân tạo, lốp ô tô, máy kéo, gạch lát ceramic, máy giặt, xe chở khách; giảm có than đá, dầu mỏ thô khai thác, dầu thực vật tinh luyện, đường kính, giày dép- ủng- da giả, ti vi. Do chất lượng tăng trưởng còn thấp, hiệu quả và sức cạnh tranh chưa cao và do gia công nên xuất khẩu một số loại tăng phần lớn do giá thế giới tăng; nhập siêu tuy giảm so với năm trước và so với kế hoạch, nhưng vẫn còn cao (11 tháng nhập siêu đã ở mức 10,66 tỷ USD- nếu loại trừ xuất khẩu vàng và các sản phẩm vàng thì mức nhập siêu lên đến 13,48 tỷ USD, bằng 21% kim ngạch xuất khẩu). Nhập khẩu còn cao, nhập siêu còn lớn, trong điều kiện giá thế giới tính bằng ngoại tệ tăng và tỷ giá VND/ngoại tệ tăng sẽ làm cho Việt Nam hiện nay nhập khẩu lạm phát và lạm phát ở trong nước bị khuếch đại.
Nguồn: Chinhphu.vn
