Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Vòng xoáy trong tăng trưởng kinh tế (04/01)

04/01/2011 - 35 Lượt xem

Bên cạnh đó, kinh tế vĩ mô vẫn trong tình trạng mất cân đối. Cụ thể là thiếu hụt tiết kiệm nội địa (so với tổng đầu tư xã hội) ở mức trên 10% GDP, thâm hụt ngân sách khoảng 6% GDP, chênh lệch tỷ giá trong - ngoài ngân hàng lên trên 10%...

Những dấu hiệu này cho thấy, tăng trưởng kinh tế thường xuyên phải trả giá bằng lạm phát và mất cân đối vĩ mô. Có thể cho rằng, nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng lạm phát là chính sách nới lỏng tiền tệ, nguyên nhân trung gian là chính sách tài khóa mở rộng, song nguyên nhân cơ bản là tăng trưởng dựa vào đầu tư, trong khi đầu tư kém hiệu quả.

Mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư

Nhìn từ góc độ thống kê, việc không ngừng tăng vốn đầu tư là nguyên nhân chính góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thập niên vừa qua. Nếu trong thập niên 90 của thế kỷ trước, nhân tố vốn chỉ đóng góp 34% cho tăng trưởng GDP thì trong giai đoạn 2000-2008, tỷ lệ này lên tới 53%. Đáng lo ngại là trong khi vai trò của vốn ngày càng tăng thì vai trò của năng suất ngày càng giảm. Bằng chứng là trong cùng thời kỳ, tỷ lệ đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp vào nền kinh tế Việt Nam giảm từ 44% xuống còn 26%, thấp hơn hầu hết các đối thủ cạnh tranh trong khu vực.

Từ góc độ chính sách, Chính phủ đặt ra mục tiêu đến năm 2020, về cơ bản, Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Và mục tiêu này, trên thực tế, được thực hiện thông qua việc mở rộng đầu tư của các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước nhằm thay thế hàng nhập khẩu. Ví dụ điển hình là chính sách phát triển công nghiệp đóng tàu và lọc hóa dầu. Vấn đề nằm ở chỗ, chiến lược này đòi hỏi một lượng vốn rất lớn vì nói chung, các ngành công nghiệp nặng thường thâm dụng vốn. Điều này mâu thuẫn trực tiếp với tình trạng thiếu hụt tiết kiệm ngày càng nghiêm trọng ở Việt Nam.

Mâu thuẫn này có thể được giải quyết bằng việc thu hút tiết kiệm nước ngoài (thông qua vay nợ hoặc tiếp nhận đầu tư, viện trợ nước ngoài) và/hoặc tăng tích lũy trong nước (thông qua các biện pháp áp chế tài chính). Thế nhưng, hệ quả tất yếu của việc thu hút tiết kiệm nước ngoài (cùng với thâm hụt ngân sách) là thâm hụt thương mại. Bên cạnh đó, tăng tích lũy trong nước thông qua các biện pháp áp chế tài chính và chủ yếu phục vụ cho các doanh nghiệp nhà nước sẽ làm thị trường vốn trở nên biến dạng và do vậy, không thực hiện được chức năng phân bổ vốn đến tay người sử dụng hiệu quả nhất.

Nguyên nhân của lạm phát

Thoạt nhìn, lạm phát dường như bắt nguồn từ chính sách tiền tệ và tài khóa mở rộng. Điều này tuy đúng nhưng chưa đủ. Về phương diện tiền tệ, trong giai đoạn 2006-2010, cả cung tiền và tín dụng của Việt Nam tăng tới 400%, trong khi GDP chỉ tăng 40%. Hệ quả là lạm phát cao, tiền đồng mất giá, thâm hụt thương mại tăng chóng mặt, dự trữ ngoại hối cạn ...

Nhìn vào hiện tượng này, có thể dễ dàng kết luận rằng, lạm phát ở Việt Nam có nguyên nhân tiền tệ. Thế nhưng, sở dĩ cho rằng, điều này đúng nhưng chưa đủ là vì ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước không được hoạt động độc lập nên chính sách tiền tệ thường phải chạy theo chính sách tài khóa.

Về phương diện tài khóa, khi nhu cầu chi tiêu công nhằm phục vụ các mục đích khác hay để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhà nước có quy mô rất lớn nhưng kém hiệu quả ngày một tăng cao, trong khi nguồn thu ngân sách không theo kịp tất yếu sẽ khiến thâm hụt ngân sách trở nên nặng nề. Vì không thể tăng thuế một cách tùy ý nên để tài trợ thâm hụt ngân sách, Chính phủ hoặc phải đi vay, hoặc phải tiền tệ hóa thâm hụt ngân sách. Biện pháp thứ nhất làm tăng gắng nặng nợ công, còn biện pháp thứ hai gây ra lạm phát.

Không những thế, cả hai chính sách tiền tệ và tài khóa cùng phải chạy theo mục tiêu tăng trưởng đầy tham vọng, chủ yếu dựa vào gia tăng đầu tư. Nhưng vì đầu tư kém hiệu quả nên nền kinh tế phải đầu tư rất nhiều chỉ để đạt được một tốc độ tăng trưởng GDP vừa phải, trong khi đưa tới hệ lụy là lạm phát luôn thường trực và trở thành cái bóng theo sau tăng trưởng.

Nguyên nhân của mất cân đối vĩ mô

Như đã phân tích, Việt Nam đi theo mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư, nhưng đầu tư lại kém hiệu quả. Mặc dù kém hiệu quả, nhưng nền kinh tế luôn chịu sức ép phải tăng trưởng cao. Hệ quả là tỷ lệ vốn đầu tư/GDP của Việt Nam rất cao, trung bình lên tới 35% GDP trong giai đoạn 2000 - 2009.

Để hỗ trợ cho khối lượng đầu tư rất lớn này, trong đó khu vực nhà nước được coi là "chủ đạo", chính phủ thường xuyên phải thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng. Nhưng vì đầu tư kém hiệu quả (thể hiện qua hệ số ICOR tăng rất nhanh trong 10 năm trở lại đây), nên thâm hụt ngân sách và lạm phát trở thành nỗi lo thường trực. Không những thế, vì  sản xuất và tiêu dùng ở Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nên thâm hụt thương mại đi theo tăng trưởng như hình với bóng. Lạm phát cao, thâm hụt ngân sách và thương mại lớn khiến đồng nội tệ luôn chịu rủi ro giảm giá.

Tóm lại, Việt Nam đã rơi vào quỹ đạo trong đó tăng trưởng cao đi đôi với rủi ro bất ổn vĩ mô lớn. Điều này cũng có nghĩa Việt Nam khó duy trì một tốc độ tăng trưởng đủ cao trong một thời gian đủ dài để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Điều kiện tiên quyết để có thể thay đổi tình trạng này là cải thiện hiệu quả đầu tư, bắt đầu bằng đầu tư công, đặc biệt là hoạt động đầu tư tại các tập đoàn và tổng công ty làm ăn kém hiệu quả nhưng lại thâm dụng vốn.

Điều chỉnh mô hình tăng trưởng để ổn định vĩ mô và tăng năng suất

Là một nền kinh tế nhỏ và rất mở, Việt Nam không có nhiều không gian trong việc sử dụng chính sách tiền tệ để kích thích tăng trưởng. Việc nới lỏng tiền tệ chưa chắc đã kích thích được tăng trưởng vì khi ấy, một tỷ lệ lớn vốn đầu tư và tiêu dùng tăng thêm sẽ rơi vào hàng nhập khẩu. Không những thế, dưới cơ chế tỷ giá gần như cố định, chính sách nới lỏng tiền tệ còn có thể dẫn đến lạm phát, bong bóng tài sản và đô-la hóa như đã xảy ra do tác dụng của gói kích cầu năm 2009.

Về lý thuyết, trong một nền kinh tế nhỏ, mở như Việt Nam thì chính sách tài khoá có hiệu lực hơn so với chính sách tiền tệ trong việc kích thích tăng trưởng. Tuy nhiên, dư địa của chính sách mở rộng tài khóa ở Việt Nam rất hạn chế vì hai nguyên nhân.

Thứ nhất, thâm hụt ngân sách của Việt Nam đã rất cao và trở nên gần như kinh niên.

Thứ hai, dưới cơ chế tỷ giá cố định, kích thích ngân sách sẽ làm tăng tổng cầu nhờ thu hút được các dòng vốn nước ngoài. Tuy nhiên, khi ấy, để duy trì tỷ giá, NHNN thường phải tăng cung tiền và có thể dẫn đến lạm phát.

Như vậy, không nên lạm dụng chính sách tiền tệ và tài khóa mở rộng để kích thích tăng trưởng kinh tế. Thay vào đó, chính sách thích hợp hơn mà Chính phủ có thể và nên làm là thực hiện một chính sách vĩ mô cẩn trọng nhằm duy trì nền tảng vĩ mô ổn định. Cần nhấn mạnh là, những lệch lạc trong chính sách vĩ mô chỉ là những biểu hiện bên ngoài của những trục trặc sâu sắc trong hệ thống thể chế và trong cấu trúc kinh tế. Khắc phục những trục trặc về thể chế và cấu trúc, ổn định kinh tế vĩ mô và tăng năng suất cho nền kinh tế sẽ là cơ sở cho tăng trưởng bền vững, có thể giúp kinh tế Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình

Nguồn: Đầu tư