
Tin mới
Điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng : Hai tác động trái chiều (23/02)
23/02/2011 - 14 Lượt xem
Trong ngắn hạn, TTCK có khả năng chịu tác động tiêu cực từ thông tin trên và xu hướng điều chỉnh giảm diễn ra mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, nếu chính sách trên phát huy hiệu quả, thì triển vọng TTCK trung và dài hạn có thể lạc quan hơn.
Biện pháp mạnh tay
NHNN đặt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng cho năm 2011 là 23%. So với chỉ tiêu 25% của năm 2010, chỉ tiêu này cũng cho thấy định hướng giảm nhiệt tăng trưởng tín dụng, cung tiền để ưu tiên mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Trong một thông tin mới đây nhất, Thống đốc NHNN đang đề nghị “tăng trưởng tín dụng dưới 20% chứ không phải 23% hay 25%” nữa.
Trong vòng 10 năm trở lại đây, mức tăng trưởng tín dụng của VN hầu như đều ở mức trên 20%, cao nhất lên tới 51.39% (năm 2007 – giai đoạn tăng trưởng mạnh của TTCK). Nếu quyết định này được đưa ra, thì đây cũng là một trong những biện pháp khá mạnh tay mới của nhà điều hành kinh tế nhằm mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô mà vấn đề then chốt nhất là lạm phát.
Một thay đổi mang tính ảnh hưởng rộng lớn như tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng sẽ không thể tránh khỏi có ảnh hưởng tới TTCK.
Một mặt, giảm tăng trưởng tín dụng đồng nghĩa giảm nguồn tiền hỗ trợ đầu tư trong nền kinh tế. Giảm đầu tư từ đó sẽ giảm khả năng tăng tổng sản phẩm nội địa (GDP). Các DN không được đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn cũng sẽ gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Triển vọng tăng trưởng vĩ mô cũng như vi mô không khả quan sẽ làm giảm triển vọng sinh lời trên cổ phiếu theo quan điểm đầu tư giá trị.
Giảm tăng trưởng tín dụng có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp. NHNN có thể thực hiện các chính sách tiền tệ để giảm cung tiền, hạn chế tăng trưởng tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất, hoặc kể cả những biện pháp hành chính. Theo cung - cầu, lãi suất có thể bị đẩy lên cao hoặc ít nhất khó có thể giảm theo kỳ vọng của thị trường. Bên cạnh đó, chính sách nắn dòng tiền vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dòng tiền vào TTCK tiếp tục gặp khó khăn. Như thực tế thị trường trong suốt năm 2010 và tháng đầu năm 2011 cho thấy, dòng tiền yếu không có khả năng “tạo sóng lớn” cho dù có thông tin hỗ trợ tốt.
Mặt khác, chính sách góp phần giảm nhiệt tăng trưởng, ổn định vĩ mô, từ đó mang lại niềm tin cho nhà đầu tư, thu hút đầu tư nước ngoài. “Ổn định vĩ mô” và “niềm tin” là hai cụm từ đang được thường xuyên nhắc đến song hành với nhau trong thời gian gần đây. Tác động của “niềm tin” là khá lớn. Đơn cử, bất ổn kinh tế vĩ mô cũng thể hiện ngay ở tâm lý và niềm tin yếu của người dân vào nền kinh tế và đồng nội tệ. Quyết định tăng tỷ giá USD/VND chính thức lên 9.3% nhằm thu hẹp khoảng cách với thị trường tự do cũng chưa phát huy tác dụng, ngược lại, giá USD giao dịch trên thị trường tự do liên tục tăng, tạo đỉnh mới vừa qua ở mức 22,250 USD/VND. Chính vì vậy, một biện pháp đơn lẻ không thể ngay lập tức có tác động mang lại ổn định, mang lại niềm tin khi hàng loạt bất ổn vẫn hiển hiện.
Đòi hỏi một chính sách đồng bộ
Mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 7% trong năm nay như Chính phủ đề ra là điều gần như không thể thực hiện được khi tăng trưởng CPI trong tháng 1/2011 là 1.74% và tháng 2 khả năng ở mức 1.5-2%. Sức ép càng lớn hơn khi một loạt sản phẩm đầu vào cho sản xuất như điện, nước, xăng dầu cũng tăng giá theo lộ trình. Tất cả gây ra một vòng hệ lụy không dễ gì giải quyết và đòi hỏi một loạt chính sách đồng bộ cần được đưa ra sắp tới. Như vậy, có khả năng mục tiêu lạm phát được điều chỉnh lại.
Tại VN, tăng trưởng kinh tế vẫn phụ thuộc rất nhiều vào đầu tư với tỷ lệ đầu tư trong nền kinh tế 10 năm trở lại đây chiếm trung bình khoảng 41% GDP, trong khi đó các quốc gia khác chỉ từ 25 - 30% GDP. Do vậy, nền kinh tế luôn đòi hỏi một tốc độ tăng trưởng tín dụng và cung tiền rất cao. Một hệ quả dễ nhận thấy của việc tăng trưởng tiền lưu thông trong nền kinh tế vượt trội so với tăng trưởng hàng hóa sản xuất ra đó là tình trạng lạm phát. Đây đã trở thành căn bệnh kinh niên mang tính cơ cấu của nền kinh tế VN, xuất phát từ mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư nhưng kém hiệu quả. Vì vậy, kiểm soát chặt chẽ và nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư trong xã hội là một trong những hướng cần làm để giải quyết gốc rễ nguyên nhân lạm phát.
Khi các vấn đề dần được giải quyết, sức mạnh nền kinh tế dần được củng cố thì tức khắc niềm tin cũng theo đó tăng lên, nhà đầu tư nước ngoài cũng nhìn nhận VN như một điểm đến với khả năng tăng trưởng cao và an toàn hơn. Hiện nay, TTCK đang trong giai đoạn phản ánh các thông tin vĩ mô có ảnh hưởng tiêu cực vừa qua và sắp tới. Trong ngắn hạn, trước nhiều bất ổn, xu hướng giảm của thị trường có khả năng sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, nếu việc điều hành chính sách phát huy hiệu quả, thì triển vọng trung và dài hạn có thể lạc quan hơn.
Nguồn: DDDN
