
Tin tức
Giải pháp không thể nhảy lò cò một chân (04/03)
04/03/2011 - 23 Lượt xem
Nhà báo Lê Vũ Phong: Thưa quý vị và các bạn! Chính phủ đã có chủ trương và các biện pháp cụ thể để chống lạm phát và thái độ rõ ràng về điều hành kinh tế vĩ mô năm 2011. Từ đây có thể thấy được quan điểm rõ ràng của VN trong phát triển là tạo sự ổn định và tăng trưởng dài hạn.
Ổn định và tăng trưởng dài hạn là điều mà nhiều chuyên gia kinh tế VN và nước ngoài khuyến cáo trong những năm gần đây khi mà nền kinh tế khủng hoảng kéo dài và khi những yếu kém nội bộ của VN bộc lộ một cách mạnh mẽ nhất, buộc chúng ta phải tư duy lại về con đường tăng trưởng và phát triển của mình. Chính vì thế việc ổn định và tăng trưởng kinh tế vĩ mô trong năm 2011 không chỉ là vấn đề trước mắt mà được hy vọng là bước đà để chuẩn bị cho việc cơ cấu lại nền kinh tế.
Với ý nghĩa đó có rất nhiều việc phải làm và phải làm kiên trì trong nhiều năm và đó cũng chính là nội dung của cuộc thảo luận hôm nay với sự tham gia của TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan và TS. Nguyễn Minh Phong, Viện Nghiên cứu Phát triển KT-XH Hà Nội.
Đủ "món" lạm phát
Nhà báo Lê Vũ Phong: Quan sát từ nửa sau của những năm trong thập niên đầu thế kỉ 21 chúng ta năm nào cũng phải vất vả với lạm phát và chưa năm nào chúng ta đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát. Thưa các vị khách mời, theo quý vị, lạm phát của năm 2011 có những điểm gì khác và trong văn bản của Chính phủ đưa ra có những biện pháp gì khác để đối phó với những điểm khác này không?
TS. Trần Đình Thiên: Việc bất ổn kinh tế vĩ mô mạnh lên từ sau khi VN gia nhập WTO. Khi đó VN phải đối mặt với cả những cơ hội và thách thức. Nhưng khi đó chúng ta đã để tình trạng tăng trưởng giảm và bất ổn tăng lên. Năm nay, chúng ta đương đầu với lạm phát khác các năm trước ở mấy điểm sau:
Thứ nhất điều kiện dẫn đến lạm phát năm nay khác so với năm trước. Sau 4 năm vất vả với lạm phát bây giờ sức của chúng ta yếu đi nhiều.
Thứ hai, sức chịu đựng của dân cũng giảm đi nhiều. Lạm phát đã diễn ra 4 năm, CPI lũy tiến đã vượt quá 60% còn nếu chúng ta cộng trực tiếp thì khoảng 50%. Như vậy sức mua của đồng tiền giảm ghê gớm.
Bối cảnh năm nay có nhiều yếu tố tác động khốc liệt như hạn hán, thiếu điện. Hai "món" này thiếu sẽ ảnh hưởng tới sản xuất, nông nghiệp và công nghiệp đều bị ảnh hưởng do thiếu điện. CPI nước ta lại dựa rất nhiều vào lương thực do đó yếu tố đầu vào bị ảnh hưởng.
Giá dầu đã đạt mức hơn 100USD/thùng. Bất ổn này rất khó dự đoán mà xu hướng tăng là chính. Như vậy cả điều kiện quốc tế cũng rất khó khăn.
Thứ hai tốc độ lạm phát ngay lúc khởi đầu đã khác. Quỹ lạm phát của chúng ta là 7% nhưng trong hai tháng đã tiêu hết 4% rồi. Như vậy dư địa cho 10 tháng tiếp theo chỉ còn 3%.
Tuy nhiên nền kinh tế buộc phải trả giá để tái lập sự cân bằng tất nhiên trả giá lúc này là vô cùng đắt.
Thứ ba là khác biệt về điều kiện. Tình thế năm nay rất khó nên quyết tâm chống lạm phát cũng bừng bừng lên. Khi bị dồn vào chân tường những tài trí, những năng lực được huy động có thể giải quyết được vấn đề.
Lúc này khi tình thế khó cả trong lẫn ngoài Chính phủ đưa ra thông điệp đảo được cách tư duy. Năm ngoái, Chính phủ cũng đưa ra thông điệp ổn định là hàng đầu, tăng trưởng là hàng dưới nhưng khi vừa ổn định thì lại chủ trương tăng trưởng dẫn đến cuối năm lạm phát. Nhưng năm nay bài học đó vẫn còn nên cách tiếp cận của chính phủ về chống lạm phát đã thay đổi theo hướng cơ bản chứ không như xưa cứ tạm ổn định lại thúc đẩy tăng trưởng.
Thủ tướng cũng chia sẻ về khái niệm độ trễ của tiền. Có nghĩa là muốn thay đổi chính sách thì phải chờ độ trễ phát huy tác dụng, muốn ổn định vĩ mô thì phải chờ 6 tháng chứ không phải chờ 2-3 tháng lại hò reo vác gậy tăng trưởng ra chiến đấu là không được.
Ngoài ra còn một điểm khác biệt nữa, mọi năm khi chúng ta chống lạm phát xong thì kết quả như thế nào thì cuối năm cũng thấy tạm ổn nhưng năm nay thì có đặt vấn đề là ổn định kinh tế, tái cơ cấu và nhận diện những bất ổn vĩ mô, lạm phát có nguồn gốc rất sâu xa chứ không phải do nguồn tiền hàng ngày.
Quan trọng hơn là những yếu kém bên trong do đó Chính phủ cũng xác định rõ đây là những chính sách trực tiếp nhưng cũng cần có những bài tính cho việc tạo ra nền tảng vững chắc cho cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên từ chính sách tới hành động là không dễ dàng nhưng tôi cho rằng bước khởi động như thế là đáng tin cậy, khôi phục lòng tin khá rõ ràng.
Dân hiểu thì mới yên tâm
Nhà báo Lê Vũ Phong: Vậy đâu là những biện pháp có thể tiến hành ngay được?
Bà Phạm Chi Lan: Tôi hoàn toàn tán thành những điều mà ông Thiên vừa nêu cũng như chính sách mà chính phủ đưa ra.
Chỉ khi nào các giải pháp được công bố một cách minh bạch và có sự trao đổi giữa các cơ quan nhà nước liên quan với dân, làm cho dân hiểu thì dân mới yên tâm chờ trong 6 tháng. Dân hiểu được rằng lộ trình này khó khăn cần có thời gian, biết được chính phủ thực sự hành động, các cơ quan thực sự hành động thì họ mới yên tâm.
Thứ hai tôi mong rằng trong thời gian tới sẽ có một kênh giao lưu giữa chính phủ và xã hội thường xuyên, tránh đi những thông điệp gây nhầm lẫn hay không đồng bộ. Ví dụ như trong chuyện tăng giá xăng: Bộ trưởng Tài chính nói rằng giá xăng phải tăng đến 6200 đồng thì mới đủ. Nói như vậy thì sẽ khiến mọi người nghĩ rằng giá tăng bây giờ chưa đến 3.000 đồng là chưa đủ. Như vậy là sẽ tăng nữa. Những thông điệp đó đưa ra chưa thật nhất quán với thông điệp của thủ tướng trong nghị quyết 11. Do đó nó sẽ gây nên tâm lý bất an trong xã hội.
Cũng trong dịp này tôi rất mong nhà nước khi đưa ra những giải pháp đòi hỏi sự hy sinh từ người dân doanh nghiệp thì cũng phải nói rõ về phần các doanh nghiệp nhà nước sẽ làm gì để giảm bớt sự hy sinh đó. Ví dụ như điện, tôi nghĩ là phải bàn thế nào để thu hút đầu tư chứ không phải cứ tăng giá lên là thu hút đầu tư. Chúng ta đã nhiều lần tăng giá rồi, vấn đề ở đây là tăng đến bao giờ mới hài lòng các nhà đầu tư. Đây có phải là chỉ cần tăng giá không hay còn nhiều vấn đề khác và cũng không phải tăng giá trên cơ sở độc quyền để thu hút những nhà đầu tư khác.
TS. Nguyễn Minh Phong: Bắt đầu từ đổi mới đến nay nhìn nhận theo chiều hướng rộng thì có 4 loại lạm phát: lạm phát tiền tệ, lạm phát chi phí đẩy, lạm phát ngoại nhập cũng như các loại lạm phát liên quan tới cơ cấu giá cả...
Năm 2011 thì lạm phát tiền tệ đã được nhận thức và sẽ được Chính phủ kiểm soát rất tốt nhưng lạm phát chi phí đẩy đưa giá cả thị trường vào những mặt hàng mà nhà nước có chính sách bình ổn.
Chính vì vậy trong những giải pháp mà chính phủ đưa ra trong nghị quyết 11 có điểm nhấn như thế.
Thứ hai lạm phát chi phí đẩy đã được nhận thức và được chấp nhận, giải pháp đưa ra hơi nhẹ, ở đây chúng ta mới nhảy lò cò một chân. Chân phải là chân thực hiện cạnh tranh thị trường phải đi trước một bước sau đó giá cả thị trường mới theo sau nhưng nhảy lò cò bằng chân giá thì chưa đủ bởi vì nếu chỉ như vậy thì mới chỉ là tăng giá trong giới hạn độc quyền, tăng vài lần sốc vẫn chưa bằng giá thị trường được. Chúng tôi cho rằng đây là điểm khiếm khuyết cũng như là cái cần bổ sung trong thời gian tới đó là làm thế nào để cụ thể hóa và lộ trình hóa quá trình này, đảm bảo cạnh tranh thị trường được xác lập sớm.
Một giải pháp cũng rất quan trọng nữa là bình ổn ở các địa phương dựa trên kinh nghiệm của các năm trước Hà Nội và TP Hồ chí minh đã thực hiện khá tốt.
Nhìn tổng thể tính chất lợi ích quốc gia đã bắt đầu được nhấn mạnh hơn. Đây là điểm rất nổi bật, xác định lợi ích quốc gia, đồng thời cũng hạn chế sự lạm dụng cá thể trong quá trình đầu tư công.
Tuy nhiên, những giải pháp liên quan tới chi phí chưa được nhấn mạnh nhiều ngoài việc Chính phủ điều chỉnh để hạ thu thuế như thuế nhập khẩu xăng dầu đã hạ tới mức 0%. Chính phủ đã tiếp tục gia tăng nguồn thu nhưng việc cải thiện môi trường đầu tư để giảm gánh nặng cho doanh nghiệp vẫn chưa được nhấn mạnh đủ.
Chính sách đẹp mà rơi rụng dần
Nhà báo Lê Vũ Phong: Gói giải pháp khá toàn vẹn nhưng theo các chuyên gia thì thực hiện như thế nào và cảnh giác cho thời điểm hiện nay là gì?
Bà Phạm Chi Lan: Thường các DN sợ nhất khi nhìn vào chính sách là thiếu sự đồng bộ, thiếu sự nhất quán. Có những chính sách đưa ra rất đẹp nhưng khi đi vào thực tế thì bị rơi rụng chỗ này rơi rụng chỗ kia và các chính sách khác không đồng hành với nó.
Ví dụ như nghị định về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đưa ra 14 giải pháp nhưng trên thực tế các chính sách trong 14 nhóm giải pháp đó không đi cùng. Cuối cùng chúng ta chỉ thực hiện được một hoặc hai nhóm giải pháp.
Sự phối hợp thi hành giữa các cơ quan với nhau không đồng bộ vì thế tạo ra sự khập khiễng. Trên thực tế lợi ích đến với dân với doanh nghiệp không được nhiều.
Thứ hai là sự phối hợp thi hành giữa các cơ quan nhà nước với nhau, lại một lần nữa do tính chưa đồng bộ thiếu nhất quán vì vậy sẽ dẫn tới tình trạng "ông chẳng bà chuộc". Rút cuộc nơi này tạo thuận lợi được một ít thì nơi khác lại gây khó khăn cho doanh nghiệp. Do đó các chính sách sẽ khôngđạt được hiệu quả cuối cùng của nó mà hậu quả không chỉ doanh nghiệp hứng chịu mà cả nền kinh tế cũng bị ảnh hưởng.
Thứ ba là cơ sở của nghiên cứu và đề xuất chính sách của chúng ta trong thời gian qua. Gần đây với một loạt các ban hành về điều chỉnh tỷ giá, tăng giá các mặt hàng thì chúng ta dường như không tính toán trên cùng một cơ sở, một lúc để tính sự tác động đối với toàn xã hội, với kinh tế, với người dân với doanh nghiệp. Có nhất thiết phải điều chỉnh giá xăng, giá điện gần như cùng lúc với tỷ giá với mức rất cao như thế ko để đến nỗi nó gây chấn động rất mạnh trong xã hội hiện nay? Cuối năm ngoái chính sách của chúng ta là kìm giá nhưng kìm tất cả cùng một lúc rồi lại tung tất cả ra thì có nên chăng?
Nếu chính sách được thiết kế đứng trên lợi ích của toàn nền kinh tế và trong khoảng thời gian dài thì tác dụng của nó đem lại khác hơn rất nhiều. Cũng như một bài toán đưa ra với xã hội chúng ta có thể giải và đưa ra tác động dài hạn, trung hạn và ngắn hạn thì sẽ có sức thuyết phục hơn nhiều.
Ông Trần Đình Thiên: Đồng bộ chính sách là khó nhất trong điều hành vì công việc từng bộ, ngành và địa phương lo, cái chung là Chính phủ lo.
Bên này hạ lãi suất, bên kia phát hành trái phiếu với một lượng lớn cạnh tranh nguồn tiền với bên này thì lập tức lại đẩy lãi suất lên.
Xung đột như vậy rất nguy hiểm cho nền kinh tế. Phải quán triệt cả tài khóa lẫn ngân hàng đều phải hy sinh cho chống lạm phát thì mới được chứ không phải chỉ hoàn thành nhiệm vụ của mình thì được khen thưởng.
Giữa Nhà nước, Chính phủ và các tập đoàn cũng cần phối hợp.
Tách an sinh XH khỏi tăng trưởng là bi kịch
Nhà báo Lê Vũ Phong: Nghị quyết cũng đã đề cập tới chính sách an sinh xã hội. Theo quý vị, cần lưu ý gì trong thời điểm hiện nay?
Ông Nguyễn Minh Phong: Sự đồng bộ chính sách cũng như chính sách anh sinh xã hội phải nhằm theo đuổi lợi ích quốc gia và nhằm mục tiêu dài hạn. Nếu quán triệt được nó sẽ giải quyết được rất nhiều vấn đề về sự xuyên suốt giữa lợi ích ngành, nhóm thậm chí của tư duy nhiệm kỳ.
Nghị quyết 11 đã đặt vấn đề này nhưng chừng mực. Ví dụ tăng giá điện có hỗ trợ người thu nhập thấp (30.000 đồng cho 50 số đầu) còn các chính sách khác vẫn đang chờ đợi thiết kế bởi các cơ quan chức năng.
Năm nay hạn chế cho vay tiêu dùng với tư cách cho vay an sinh xã hội. Vay tiêu dùng bị kết cùng với BĐS và chứng khoán. Người dân nghèo sẽ bị hạn chế hơn.
Đặc biệt có một tư duy không tới trong chính sách tăng giá. Tăng giá lại bị coi là công cụ thu hút đầu tư trong khi nó ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống người dân. Người ta không thể biện minh rằng tăng giá điện để lấy một phần lợi nhuận đầu tư cho ngành điện với tư cách là một ngành kinh doanh là không hơp lý. Mỗi năm ngành điện tăng từ 13-15% tổng cầu. Đây là ngành rất hấp dẫn các nhà đầu tư. Vấn đề là chính sách cạnh tranh đầu tư đến đâu để các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước nhảy vào.Với một ngành mà cầu luôn lớn hơn nhiều so với cung thì rõ ràng đây là một lĩnh vực đầu tư rất hấp dẫn cho tư nhân. Giá thị trường là giá thị trường chứ không phải là giá thị trường cộng với lợi nhuận.
Tôi xin lưu ý 2 điểm:
Địa phương và TW cần có kho dự trữ an ninh lương thực và các an ninh liên quan tới đời sống cho người dân ví dụ như quỹ đảm bảo ổn định giá cho người dân.
Tiếp tục cho vay để phát triển nhà cho người thu nhập thấp, nó vừa có ý nghĩa kinh tế vừa có ý nghĩa xã hội rất lớn. Đây là chính sách xã hội vì đáp ứng hàng chục triệu hộ gia đình.
Ông Trần Đình Thiên: An sinh xã hội thường bị quan niệm là "hậu tăng trưởng", tức là nhóm người ngoài lề tăng trưởng. Bản thân câu chuyện phải được giải quyết ngay trong tăng trưởng, khi đó gánh nặng an sinh mới được giảm đi.
Ví dụ lương là vấn đề bất cập nhiều chục năm. Mô hình tăng trưởng dựa vào vốn, tức là lợi ích tăng trưởng chắc chắn người giàu được hưởng lợi bởi không tạo nhiều việc làm, đặt gánh nặng lên an sinh xã hội. Hay mô hình tăng trưởng dựa vào bóc lột tài nguyên, khai thác tài nguyên tối đa thì hệ quả cho an sinh xã hội là rất khủng khiếp.
Nếu bài toán an sinh xã hội bị tách ra thì là bi kịch của sự phát triển.
Bà Phạm Chi Lan: Tạo điều kiện cho khu vực DN mà tạo nhiều công ăn việc làm nhất để ổn định công việc tăng thêm thu nhập cho người lao động. Đó chính là DN nhỏ và vừa. Đó chính là doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Đến 85% người lao động nước ta làm cho DN tư nhân, DN nhỏ và vừa. Công ăn việc làm và thu nhập chủ yếu của người dân là ở đó. Muốn an sinh xã hội thì tạo điều kiện cho khu vực này hoạt động tốt, họ càng ổn định càng phát triển thì đời sống của người dân càng nâng cao. Người nghèo nhất cũng không muốn hàng năm phải đi xin trợ cấp của nhà nước mà muốn tự người ta có thể bù đắp.
Nguồn: Vietnamnet
