Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Sử dụng hiệu quả vốn đầu tư công: Phải chuyển dịch mô hình tăng trưởng (04/03)

04/03/2011 - 18 Lượt xem

Song khi phân tích cơ cấu đầu tư công, các chuyên gia kinh tế nhận định rằng: Việc quá chú trọng đầu tư nguồn lực cho kinh tế để tạo ra tăng trưởng đã khiến đầu tư cho các lĩnh vực xã hội, đầu tư phát triển con người chưa tương xứng với yêu cầu thực tế đòi hỏi.

Cần xem xét lại tỉ trọng đầu tư

Phân tích số lượng và tỉ trọng vốn đầu tư phân theo ngành và lĩnh vực đầu tư trong 10 năm trở lại đây, có thể thấy Chính phủ tập trung lớn cho việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, cải thiện các điều kiện xã hội, môi trường và dành một phần vốn đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chủ yếu làm nhiệm vụ công ích, giảm nhanh việc cấp vốn để kinh doanh.

Đây là định hướng đúng khi Nhà nước phải đứng ra đầu tư những phần việc mà ngoài Nhà nước, không thành phần kinh tế nào đảm đương nổi. Song xét cụ thể vào các lĩnh vực thì đầu tư công cho các ngành thuộc lĩnh vực kinh tế đang chiếm tỉ trọng áp đảo so với các lĩnh vực đầu tư khác.

Năm 2009, đầu tư của Nhà nước cho kinh tế chiếm tới 77,1% tổng số vốn đầu tư nhà nước. Năm cao nhất - 2002 chiếm 82,7%, năm thấp nhất - 2006 chiếm 73,9%. Trong khi đầu tư vào các ngành thuộc lĩnh vực xã hội, liên quan trực tiếp tới phát triển con người (như khoa học, giáo dục - đào tạo, y tế và cứu trợ xã hội, văn hóa, thể thao, phục vụ cá nhân và cộng đồng) từ 17,6% năm 2000 giảm xuống còn 15,2% năm 2009 (năm cao nhất là 2003 - chiếm 19,7%, năm thấp nhất 2002 - chiếm 14,3%).

Theo các chuyên gia kinh tế, xu thế này là không hợp quy luật. Bởi một mặt, cùng với sự tăng lên của mức sống, các nhu cầu về phúc lợi cần phải được đảm bảo ở mức cao hơn. Mặt khác, sự phát triển của khoa học - công nghệ và xu thế phát triển kinh tế tri thức đòi hỏi phải đầu tư ngày càng nhiều hơn cho phát triển nguồn lực con người.

Ở cấp độ ngành, chiếm trên dưới 40% tổng số vốn đầu tư công là cho các ngành kết cấu hạ tầng như: Điện, nước, vận tải, thông tin... Trong khi đó, một số ngành dù VN có thế mạnh như nông, lâm, thủy - hải sản lại bị giảm tỉ trọng đầu tư. Tỉ lệ đầu tư cho khoa học - công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế... không có sự thay đổi đáng kể. Các chuyên gia cho rằng, trong dài hạn, Chính phủ cần phải điều chỉnh cơ cấu này, cần xem việc đầu tư cho KHCN, cho nguồn lực con người là quan trọng để tạo ra bước đột phá nhằm tăng tính cạnh tranh bằng tri thức.

Tăng trưởng phải dựa vào năng suất lao động

Trong khi phải chi nhiều cho các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thì thước đo hiệu quả đồng vốn (hay gọi là hệ số suất đầu tư - ICOR) của VN lại có xu hướng giảm so với trước. Trong giai đoạn 2000-2007, hệ số ICOR của toàn nền kinh tế là 5,2; có nghĩa là để tăng một đồng GDP phải bỏ ra 5,2 đồng vốn. Hệ số ICOR này là quá cao nếu so sánh với các nước ở trình độ phát triển tương đương.

Như Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc trong những năm 1950-1975, hệ số ICOR chỉ dao động trong khoảng 1-2; Trung Quốc giai đoạn 1991-2003 chỉ là 4,1. Điều đáng nói là hệ số ICOR của khu vực DNNN quá cao (7,8) đã kéo lùi ICOR của toàn nền kinh tế. Trong khi, khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài được đánh giá là hiệu quả cao thì hệ số ICOR cũng thuộc loại cao (5,2). Duy có khu vực kinh tế tư nhân ICOR là 3,2.

Khu vực DNNN sử dụng vốn không hiệu quả, do có những đồng vốn được sử dụng không phải vì mục tiêu lợi nhuận, nhưng không phải là không có những nguyên nhân chủ quan như chiến lược kinh doanh thiếu bài bản, quản lý kém, tham nhũng, lãng phí... Đã có nhiều tập đoàn, TCty lớn của Nhà nước (như dầu khí, viễn thông, công nghiệp đóng tàu...) được Nhà nước hỗ trợ cho vay ưu đãi hoặc Chính phủ đứng ra bảo lãnh cho vay nợ để thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước đặt hàng, đã trở thành những lực lượng mạnh chi phối các ngành kinh tế chủ lực.

Tuy nhiên, việc giám sát hoạt động của các tập đoàn, TCty lớn này lại chưa có cơ chế chặt chẽ, nhất là giám sát việc sử dụng vốn đầu tư, trong khi các chế tài để giám sát thường trong nội bộ DN. Thực tế đã xảy ra với DNNN khi mở rộng quy mô đầu tư, vay nợ lớn, đầu tư dàn trải vào nhiều lĩnh vực, ngành nghề, không thuộc ngành nghề kinh doanh chính, hoặc độc quyền chi phối thị trường, quản lý kém gây thất thoát vốn, kinh doanh thua lỗ. Tình trạng sử dụng chưa hiệu quả vốn đầu tư ở các DNNN đã trở thành phổ biến và đáng báo động.

Để lành mạnh hóa nguồn vốn đầu tư công, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Kế hoạch - Đầu tư xây dựng Đề án đổi mới và đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2011-2020 (còn gọi là Đề án tái cơ cấu nền kinh tế). Theo đó, mục tiêu của Chính phủ là trong vòng 10 năm tới phải đưa nền kinh tế nước ta phát triển ổn định, bền vững, nâng cao sức cạnh tranh, thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực. Một trong những điểm mấu chốt của đề án này - theo các chuyên gia kinh tế - là Nhà nước cần từ bỏ mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, chuyển sang mô hình phát triển theo chiều sâu, lấy nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh làm tiêu chí chủ yếu.

Đề xuất cho mô hình tăng trưởng này, theo các chuyên gia, chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước cần thay đổi mạnh mẽ. Cụ thể, giữ và giảm dần tỉ trọng tích lũy (xuống dưới 40% GDP). Giữ ổn định gánh nặng thuế, giảm tỉ lệ huy động GDP vào ngân sách.

Nhờ đó, tạo môi trường thuận lợi hơn cho kinh tế dân doanh phát triển; khu vực ngoài nhà nước có thể tự tích lũy nhiều hơn để phát triển và đồng thời tỉ lệ tiêu dùng trong GDP tăng lên; đó là biện pháp kích cầu hữu hiệu đối với sản xuất và cũng tạo điều kiện trực tiếp để nâng cao mức sống nhân dân. 

Nguồn: Lao động