
Tin tức
Tỷ trọng cao, hiệu quả thấp (14/03)
14/03/2011 - 28 Lượt xem
Việt Nam đã có một đợt cắt giảm đầu tư công rầm rộ vào năm 2008. Theo báo cáo của Chính phủ với Quốc hội tại kỳ họp đầu năm 2009, đã đình hoãn, giãn tiến độ 3.100 công trình, dự án với khoảng 37.000 tỉ đồng vốn từ nguồn ngân sách và vốn của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), cắt giảm khoản 9.000 tỉ đồng vốn trái phiếu chính phủ và 2.700 tỉ đồng chi thường xuyên của các cơ quan dùng ngân sách.
Tưởng rằng sau đợt cắt giảm đó, tình hình đầu tư công đã khá hơn, hiệu quả được nâng lên. Nhưng rất tiếc không phải như vậy. Báo cáo mới nhất của Ủy ban Tài chính Ngân sách Quốc hội khi thẩm tra tình hình thu chi ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2010 đã “đề nghị xem xét lại đầu tư công những năm qua có xu hướng tăng cao và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn so với tổng đầu tư toàn xã hội”. Năm 2007 chiếm 37,2%, năm 2008 chiếm 33,9%. Năm 2009 chiếm 40,6% và năm 2010 chiếm 46,2%.
Trong đầu tư công, đầu tư từ nguồn NSNN tăng lên trong khi đầu tư từ tín dụng và các DNNN có xu hướng giảm dần. “Hệ số ICOR tăng lên nhanh chóng và đặc biệt là ở các kênh đầu tư từ NSNN là nguyên nhân góp phần làm tăng lạm phát”, ủy ban nhận định. Ngoài ra, bên cạnh con số chi đầu tư lớn nhưng số chuyển nguồn hàng năm cũng rất lớn (có lên dự toán nhưng không thực hiện được) làm hiệu quả đầu tư công ngày càng thấp.
Thực tế cho thấy, những e ngại về hiệu quả đợt cắt giảm đầu tư công rầm rộ năm 2008 là có cơ sở. Những con số rất lớn được công bố hồi đó còn nói lên thực trạng đầu tư công tràn lan hoặc cắt giảm đầu tư trên giấy là chính nên mới có thể bỏ dễ dàng. Ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế, nhấn mạnh nếu một dự án được chuẩn bị đầu tư kỹ càng thì không dễ gì có thể cắt giảm, đình hoãn một cách đơn giản như vậy.Còn nếu rà soát, cắt giảm được chừng ấy dự án, cần phải xem lại các quyết định đầu tư.
Một ví dụ cho thấy rất nhiều con số cắt giảm đầu tư công lớn năm đó chỉ là hình thức. Năm 2008, tập đoàn Vinashin là một trong những đơn vị đầu tiên lên tiếng mạnh mẽ về kế hoạch cắt giảm đầu tư công. Trên 40 dự án lớn (tổng đầu tư khoảng 6.500 tỉ đồng) và hơn một trăm dự án nhỏ có tên trong danh sách dừng, giãn, hoãn tiến độ.
Nhưng thực tế thì sao? Như dự án liên doanh sản xuất thép với tập đoàn Posco (phần vốn góp 1 tỉ đô la Mỹ/4 tỉ đô la tổng vốn đầu tư dự án) ở vịnh Vân Phong (Khánh Hòa) mà Vinashin tuyên bố rút đi lại chuyển sang đầu tư vào dự án liên doanh thép ở Cà Ná (Ninh Thuận), với mức vốn góp dự kiến khoảng 2,5 tỉ đô la.
Tất nhiên là thực tế chưa có đồng vốn nào được góp ở hai dự án trên, nhưng số tiền mà Vinashin dự kiến góp với Posco, tính ra khoảng 1.600 tỉ đồng vào thời điểm đó, lại được tính vào thành tích cắt giảm dự án đầu tư công. Đến ngày 25-2 vừa qua, UBND tỉnh Ninh Thuận chính thúc rút giấy phép dự án liên doanh sản xuất thép của Vinashin với tập đoàn Lion (Malaysia) thì hậu quả của dự án mới được giải quyết.
Theo tính toán của TS. Vũ Tuấn Anh, Viện Nghiên cứu kinh tế, trong một “Báo cáo về hiệu quả đầu tư công” cho thấy năm 2008 vốn dành cho đầu tư công thấp hơn không đáng kể so với năm 2007. Và đến năm 2009 lại tăng vọt, bù lại sự cắt giảm, nhằm kích cầu đầu tư. Do vậy, độ trễ của việc vốn đầu tư NSNN tăng cao đã phản ánh rất rõ trong việc tăng đầu tư công của năm 2010.
Dựa trên tài liệu của Ngân hàng Phát triển châu Á và Tổng cục Thống kê, ông Tuấn Anh cũng tính được là năm 2008, Chính phủ Việt Nam đã chi tiêu 29,4% GDP, cao hơn hẳn và gần gấp rưỡi so với các nước trong khu vực, chưa tính đến vốn trái phiếu và vốn vay ODA (theo hệ thống thống kê tài chính hiện hành của Việt Nam, hai nguồn này không được đưa vào ngân sách).
Như vậy, vai trò chi phối của cải xã hội của Chính phủ Việt Nam lớn hơn so với chính phủ các nước khu vực. Hay nói khác đi, xét về tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP thì Chính phủ Việt Nam là nhà đầu tư lớn nhất so với chính phủ các nước Đông Á và Đông Nam Á. Đó là một xu thế ngược trong quá trình nâng cao vận động đầu tư toàn xã hội vào nền kinh tế, giảm đầu tư công.
Trên bàn cân hiệu quả Trong Nghị quyết 11 của Chính phủ về chống lạm phát, hai khoản chi lớn cho đầu tư công bị yêu cầu cắt bỏ gồm: không ứng trước vốn ngân sách, trái phiếu chính phủ năm 2012 cho các dự án, trừ dự án cấp bách; và không kéo dài thời gian thực hiện các khoản vốn đầu tư từ NSNN, trái phiếu chính phủ năm 2011 và thu hồi về ngân sách để bổ sung vốn cho các công trình, dự toán hoàn thành trong năm. Tại sao Chính phủ lại kiên quyết nói không với hai khoản này? Do năm 2010, vốn trái phiếu chính phủ đầu tư cho công trình giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế giải ngân tới 98,6% kế hoạch nhưng kết quả giám sát của Ủy ban Kinh tế cho thấy việc đầu tư dàn trải, tình trạng thiếu vốn, công trình dở dang lại đang diễn ra rất phức tạp. Việc kiểm tra, rà soát, loại bỏ các công trình không trọng điểm để tập trung vốn là cần thiết. Mặt khác, việc tạm ứng ngân sách cho các công trình nêu trên lại có vấn đề. Đến 31-12-2010 chưa bố trí được nguồn thu hồi khoảng 40.430 tỉ đồng. Con số này tính ra bằng gần 90% tổng nguồn trái phiếu chính phủ mà Nhà nước dự định phát hành trong năm 2011. |
Nguồn: TBKTSG
