
Tin tức
Chỉnh đốn lãi suất - Tầm nhìn nào? (17/03)
17/03/2011 - 19 Lượt xem
Kinh nghiệm thực tế và nguyên lý cho thấy, trong điều kiện bình thường của thị trường tài chính hiệu quả (chuẩn tắc) và trong một thời gian dài tương đối thì lãi suất thường là đối tượng khách hàng vay có mức độ rủi ro cao hơn thì lãi suất vay phải cao hơn. Lãi suất dài hạn thường cao hơn lãi suất ngắn hạn. Lãi suất phạt phải cao hơn lãi suất bình thường. Lãi suất qua đêm phải cao hơn lãi suất bình thường khác. Lãi suất tái cấp vốn phải cao hơn lãi suất tái chiết khấu... và nhìn chung lãi suất trái phiếu chính phủ phải thấp hơn lãi suất ngân hàng.
Kỷ cương của lãi suất thị trường
Nếu kỷ cương lãi suất như vậy được duy trì một cách tương đối thì nhìn chung thị trường tài chính sẽ vận hành ổn định.
Mới đây, NHNN đã điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu lên 11% và lãi suất tái cấp vốn lên 12%/năm. Nếu nhìn lại trước đó mức lãi suất này chỉ 7% so với lãi suất trái phiều chính phủ 11% thì đó là một nghịch lý thực sự. Sự nghịch lý này ở chỗ, lãi suất trái phiếu chính phủ được coi là rủi ro thấp nhất và là tham chiếu và có mối liên hệ nhất định với lãi suất chủ chốt của ngân hàng trung ương (lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu) tạo nên hệ thống lãi suất chủ chốt của nhà nước. Hệ thống lãi suất này là lãi suất tham chiếu cho thị trường tiền tệ. Sự lệch lạc này đã một thời tồn tại tạo nên sự lệch lạc khác trong chính sách.
Nhìn lại thời gian cuối 2010 và đầu năm 2011, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn tại NHNN chỉ 7%/năm trong khi lãi suất trái phiếu chính phủ là hơn 11%/năm. Sự nghịch lý này đã làm tê liệt chính sách tiền tệ của NHNN trong nỗ lực bơm tiền để giảm lãi suất hay cung vốn cho nền kinh tế. Các NHTM lớn sẵn vốn lớn trong tay, chỉ đơn giản đầu tư vào trái phiếu chính phủ (lãi suât được hưởng là 11%) sau đó chiết khấu tại NHNN lãi suất thấp (lãi suất phải trả là 7%) sau đó lại đầu tư vào trái phiếu chính phủ ăn lãi suất cao hơn... Cứ như thế các NHTM không cần cho vay nền kinh tế mà chỉ quay vòng như vậy để kiếm lời. Một số nhận cho rằng xét rằng, trong điều kiện nghịch lý về lãi suất, các NHTM nhất là lớn đã kinh doanh trên lưng nhà nước.
Như vậy sự điều chỉnh lãi suất của NHNN ngày 8/3/2011 vừa qua, nâng lãi suất lãi suất tái chiết khấu từ 7% lên 11%/năm thực chất cũng là điều chỉnh để đảm bảo lãi suất về đúng với vị trí đáng nhẽ của nó.
Vẫn cần một sự điều chỉnh
Hiện tại, NHNN đã có quy định về mức lãi suất huy động không quá 14%/năm. Tăng điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu ngang lãi suất trái phiếu chính phủ (11%). Tuy nhiên, nếu dạo quanh thị trường chúng ta vẫn thấy còn rất nhiều vấn đề lẫn lộn về lãi suất. Sự lẫn lộn của lãi suất phản ánh vấn đề thực tế của thị trường còn đang cần sự điều chỉnh.
Bảng lãi suất huy động tiền gửi tại một ngân hàng thương mại cổ phần hạng trung ở VN vào ngày 9/3/2011 (biểu bảng) cho thấy, biểu lãi suất này hoàn toàn tuân thủ mức trần lãi suất huy động tối đa không quá 14%/năm theo quy định của NHNN. Tuy nhiên điểm đáng chú ý là lãi suất ở kỳ hạn 1 tháng - 3 tháng đối với huy động VND cá nhân là 14%/năm và đối với tiền gửi DN từ 18 tháng - 36 tháng là 11.95%/năm...
Ngoài vấn đề lãi suất bằng “đầu cũng như vai” như vậy, nhiều ngân hàng đưa ra chính sách khách hàng rất “linh động” về kỳ hạn- điều này làm cho kỳ hạn của ngân hàng trở nên khá... linh tinh. Theo các hình thức gửi tiền tiết kiệm hiện nay, khách hàng có thể rút trước hạn bất kỳ lúc nào và không bị phạt đã làm cho tính kỳ hạn hầu như không còn có ý nghĩa. Như vậy ngân hàng trở nên rất rủi ro về vấn đề rút tiền của khách hàng.
Thông tin báo chí đưa ra gần đây việc lách luật về thỏa thuận hợp đồng lãi suất 14%/năm để không trái với quy định của NHNN nhưng lại ngầm định về sẵn sàng vi phạm kỳ hạn của hợp đồng để trả lãi suất phạt đã làm cho kỳ hạn không còn là kỳ hạn và cả lãi suất cũng trở nên rất khó lường và không biết nó đang phản ánh điều gì, tình trạng gì. Lãi suất bằng “đầu cũng như vai”, kỳ hạn rất mù mờ và các kiểu lách luật như vậy trên thị trường tiền tệ đang làm cho các sản phẩm huy động vốn của các ngân hàng VN hiện tại rất mù mờ.
Chúng ta dễ nhận thấy rằng, nền kinh tế đang cần vốn trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu nền kinh tế và nếu ngân hàng có nhiều nguồn vốn trung và dài hạn hơn thì sẽ ít rủi ro hơn về thanh khoản. Theo logic đó, ngân hàng VN sẽ khuyến khích gửi vốn trung và dài hạn hơn là ngắn hạn và như vậy lãi suất huy động dài hạn phải cao hơn lãi suất huy động ngắn hạn. Nghịch lý về lãi suất dài hạn thấp hơn lãi suất ngắn hạn đang tồn tại ở VN rất lâu và qua biểu lãi suất trên cũng cho thấy điều đó.
Nghịch lý này có thể do rất nhiều nguyên nhân nhưng nó phản ánh rất rõ vào cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng VN, một cơ cấu khá rủi ro và làm khó ngân hàng đang rất phổ biến hiện nay: nguồn vốn ngắn hạn dưới 6 tháng chiếm gần 80% tổng nguồn vốn huy động; nguồn vốn trung hạn trên 1 năm chiếm chưa tới 10% tổng nguồn vốn:
Trần lãi suất huy động là 14%/năm chỉ áp dụng được cho ngân hàng. Trong thực tế các Cty chứng khoán cũng huy động bằng hình thức hợp đồng liên kết kinh doanh với lãi suất chắc chắn cao hơn nhiều. Cty chứng khoán cũng thường cho vay khách hàng (cấp tín dụng cho khách hàng) nhưng không bao giờ nói đó là nghiệp vụ cho vay mà đó được gọi tên rất mỹ miều “hợp đồng hợp tác đầu tư chứng khoán”. Lãi suất cho vay của công ty chứng khoán lại được gọi với cái tên khác là “lãi suất hỗ trợ” hay “phí hỗ trợ”. Những hình thức này đã làm “tê liệt” các quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng và điều quan trọng hơn làm cho hệ thống lãi suất ở VN đang bị méo mó đi theo đủ chiều hướng khác nhau.
Lãi suất ngoại tệ và nội tệ -tầm nhìn nào ?
Từ 2009, Nhà nước chủ trương hạ lãi suất huy động USD, trong khi lãi suất VND cao. Việc cho phép vay bằng ngoại tệ đã khuyến khích DN vay bằng ngoại tệ. Điều này một mặt làm tăng mức độ USD hóa tiền vay trong nền kinh tế. Tỷ trọng dư nợ cho vay ngoại tệ tăng mạnh từ khoảng 22% (năm 2008) lên gần 27% tổng dư nợ vào năm 2010 với mức tăng trưởng tín dụng ngoại tệ năm 2010 lên tới gần 49,3% so với 2009 trong khi tín dụng nội tệ VND chỉ tăng 25,3% so với năm 2009. Sự lệch lạc về lãi suất nội tệ và ngoại tệ như vậy rõ ràng đã để lại hệ lụy là DN dấn sâu vào rủi ro tỷ giá mà các chuyên gia kinh tế đã quan ngại thời gian qua.

Nguồn: DDDN
