
Tin tức
Vốn đầu tư nhà nước: Đã đến lúc tái cơ cấu (04/04)
04/04/2011 - 26 Lượt xem
![]() |
Nguồn số liệu: Niên giám thống kê, Báo cáo năm 2010 và quý I/2011 của TCTK |
Vốn đầu tư của khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
Đóng vai trò chủ đạo
Từ năm 2003 trở về trước, nguồn vốn này đã chiếm quá nửa tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội; bắt đầu giảm xuống từ năm 2004, trong đó năm 2008 đã giảm xuống còn 1/3 để kiềm chế lạm phát; năm 2009 đã tăng lên để ngăn chặn suy giảm kinh tế; được giảm trở lại trong năm 2010; đã tăng lên trong quý I/2011, song sẽ được giảm trong cả năm 2011 theo Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ.
Trong điều kiện nền kinh tế mới chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vốn của khu vực kinh tế nhà nước còn chiếm tỷ trọng cao là tất yếu.
Cùng với việc đổi mới, mở cửa hội nhập, với sự ra đời của các doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội cũng sẽ giảm xuống và đó cũng là tất yếu.
Vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn vay, vốn của các doanh nghiệp nhà nước và các nguồn vốn khác. Vốn ngân sách nhà nước chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước (năm 2000 chiếm 43,6%, năm 2005 chiếm 54,4%, năm 2008 chiếm 61,8%, năm 2009 chiếm 64,3%,…).
Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn bội chi lớn, thì việc dành vốn cho chi đầu tư phát triển chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi ngân sách nhà nước (2008 chiếm 27,5%), chiếm tỷ trọng khá trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội (trên dưới 25%) và chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư khu vực nhà nước, là một cố gắng lớn của Chính phủ.
Cũng vì vậy, tỷ lệ tiêu dùng của Chính phủ trong GDP của Việt Nam trong nhiều năm qua còn ở mức thấp (năm 2005 là 6,15%, năm 2006 là 6,03%, năm 2007 là 6,05%, năm 2008 là 6,12%, năm 2009 là 6,3%), thuộc loại thấp so với các nước trong khu vực ở châu Á và trên thế giới (tỷ lệ chung của thế giới năm 2002 là 17,07%, của Đông Á- Thái Bình Dương năm 2004 là 11,59%, của châu Âu và Trung Á năm 2004 là 16,56%, của khu vực Đồng Euro năm 2003 là 20,51%, của các nước thu nhập cao năm 2002 là 17,68%, của các nước chậm phát triển năm 2004 là 10,28%, của các nước thu nhập thấp năm 2003 là 11,52%, của các nước thu nhập trung bình năm 2004 là 13,16%).
Tỷ trọng nguồn vốn vay trong tổng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước, nếu năm 2000 còn chiếm 31,1% trong tổng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước, thì đến năm 2005 giảm xuống còn 22,3% và đến năm 2009 giảm xuống còn 14,1%.
Tỷ trọng vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước và nguồn vốn khác chiếm trên dưới 1/4 tổng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước, trong đó nếu năm 2006 còn chiếm 31,4% thì năm 2009 giảm xuống còn 21,6%.
Không những chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, mà vốn đầu tư của khu vực nhà nước còn có vai trò lớn trong việc phát triển xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; có tác động lớn trong việc đổi mới cơ cấu kinh tế ngành, kinh tế vùng; tạo nên các công trình trọng điểm quốc gia, xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng; xóa đói giảm nghèo, tác động đến sự phát triển vùng sâu, vùng xa; là nguồn vốn “mồi” để có thể thu hút lượng vốn của các thành phần kinh tế khác, nhất là khi có các công trình của nhà nước được hình thành.
Tái cơ cấu để nâng cao hiệu quả
Tuy nhiên, vốn đầu tư từ khu vực nhà nước, nhất là từ ngân sách nhà nước, thường tập trung đầu tư vào các công trình cơ sở hạ tầng, phát triển xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, đầu tư vào vùng sâu, vùng xa, xóa đói giảm nghèo… (là những lĩnh vực mà khu vực ngoài nhà nước không muốn đầu tư do không hoặc chậm thu hồi vốn) nên hiệu quả kinh tế thường thấp hơn các khu vực khác.
Ngoài ra việc quản lý, từ cơ chế đến quy hoạch, việc quản lý điều hành, giải phóng mặt bằng, thi công cụ thể của các cấp, các ngành, các đơn vị cơ sở còn có sự lơi lỏng, nên còn để xảy ra lãng phí, thất thoát.
Do các yếu tố trên nên hiệu quả đầu tư vốn của khu vực kinh tế nhà nước còn thấp, hệ số ICOR của khu vực này thường cao hơn khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (trong thời kỳ 2006- 2009 tương ứng là gần 8 lần so với 4,3 lần và 5,1 lần).
Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ đề ra mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội, trong đó có giải pháp giảm đầu tư công.
Về mặt này ngoài việc không chuyển vốn từ năm trước sang, không ứng trước vốn đầu tư của năm sau, giảm lượng vốn đầu tư từ trái phiếu Chính phủ, (theo tính toán của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc là đã giảm được 51 nghìn tỷ đồng),… còn phải thực hiện việc chuyển vốn đầu tư giữa các công trình, trên cơ sở xem xét tiến độ thực hiện và mức độ thiết yếu của công trình thuộc vốn đầu tư công.
Đối với vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, cần rà soát lại việc đầu tư ra ngoài ngành, ngoài lĩnh vực chuyên môn chính. Trong việc đấu thầu thi công và việc mua sắm thiết bị, cần quan tâm đến nhà thầu trong nước và sử dụng thiết bị, vật tư trong nước đã sản xuất được.
Nguồn: Chinhphu.vn
