Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Kết hợp uyển chuyển 2 biện pháp trong điều hành kinh tế vĩ mô (13/04)

13/04/2011 - 24 Lượt xem

Biện pháp cơ bản thường được sử dụng chủ yếu trong các trường hợp: thứ nhất khi diễn biến tình hình ít có biến động lớn, không phải sử dụng các biện pháp tình thế; thứ hai nhằm thực hiện mục tiêu cơ bản, lâu dài, bảo đảm các cân đối lớn của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và thứ ba trong điều kiện không bình thường, diễn biến tình hình trong nước và trên thế giới có những biến động lớn, phải áp dụng biện pháp tình thế và thường có hiệu ứng phụ, thì biện pháp cơ bản sẽ không những giúp khắc phục các hiệu ứng phụ đó, tránh lặp lại những hạn chế, yếu kém tương tự trong quá khứ, mà còn tạo điều kiện cho việc thực hiện mục tiêu cơ bản, lâu dài.

Biện pháp tình thế thường được sử dụng trong các trường hợp sau: thứ nhất trong các điều kiện không bình thường, tình hình ở trong nước và trên thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; thứ hai để ứng phó và xử lý nhanh tình hình, nhất là ưu tiên cho những vấn đề nóng nhất.

Tuy có mối quan hệ chặt chẽ nhưng không cùng chiều như trên, nên khéo kết hợp trong việc sử dụng các biện pháp cơ bản và biện pháp tình thế để phát huy hiệu quả cao nhất, tránh sự triệt tiêu lẫn nhau khi sử dụng hai biện pháp.

Sự kết hợp uyển chuyển 2 biện pháp nói trên đã được Chính phủ thực hiện từ năm 2008 đến nay và đã đạt được kết quả nhất định.

Bài học kinh nghiệm từ những năm trước

Năm 2008, những yếu tố ở trong nước cộng hưởng với các yếu tố trên thế giới đã làm cho lạm phát ở trong nước bùng phát. Chỉ sau 8 tháng giá tiêu dùng đã tăng tới 21,41% cao nhất so với cùng kỳ của 16 năm trước đó. Chính phủ đã chuyển đổi mục tiêu từ ưu tiên tăng trưởng kinh tế chuyển sang ưu tiên kiềm chế lạm phát bằng việc thắt chặt chính sách tiền tệ với các giải pháp rất mạnh. Nhờ vậy, lạm phát đã được chặn đứng, chỉ tăng rất thấp (0,18%) vào tháng 9 và giảm liên tục trong 3 tháng cuối năm (tháng 10 giảm 0,19%; tháng 11 giảm 0,76%; tháng 12 giảm 0,68%) – một hiện tượng hầu như chưa từng xảy ra của cùng kỳ trong các năm trước đó!

Việc thắt chặt chính sách tiền tệ, tài khóa trong năm 2008 đã có hiệu ứng phụ, cộng hưởng với tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới đã làm cho tăng trưởng kinh tế bị suy giảm, nếu năm 2007 đạt 8,46%, cao nhất so với 10 năm trước đó, thì năm 2008 chỉ còn tăng 6,31% và năm 2009 chỉ còn tăng 5,32%.

Ngay từ tháng 10/2008, Chính phủ đã chuyển đổi mục tiêu từ ưu tiên kiềm chế lạm phát sang ưu tiên ngăn chặn suy giảm tăng trưởng kinh tế, với nhiều giải pháp, trong đó có giải pháp lần đầu tiên được thực hiện và cũng là biện pháp riêng có của Việt Nam – cấp bù lãi suất 4%.

Nhờ đó tăng trưởng kinh tế mới thoát đáy (vào quý I/2009 chỉ tăng 3,1%), vượt dốc đi lên từ quý II và cả năm đạt 5,32% - một tốc độ tăng hiếm hoi trên thế giới – và tiếp tục cao hơn trong các quý tiếp theo của năm 2010.

Năm 2009 tốc độ tăng giá tiêu dùng chỉ ở mức 6,52%, thấp hơn rất nhiều so với năm 2008 (19,89%), thấp xa so với mục tiêu đề ra (lúc đầu dưới 15%, sau được điều chỉnh dưới 10%).

Đây là độ trễ của việc thắt chặt chính sách tiền tệ để ngăn chặn suy giảm tăng trưởng kinh tế cũng đã làm cho giá tiêu dùng tăng cao vào tháng 12/2009 và mấy tháng sau đó trong năm 2010.

Chính phủ đã quyết định dừng việc cấp bù lãi suất vào 31/12/2009; tăng trưởng tín dụng đã chậm lại. Nhờ vậy, tốc độ tăng giá tiêu dùng đã thấp hơn bình thường từ tháng 4 đến tháng 8/2010 (tăng bình quân 0,18%/tháng).

Từ tháng 9/2010, tốc độ tăng giá tiêu dùng đột ngột tăng cao và kéo dài cho đến nay. Trong tình hình ấy, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11 về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội với nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt việc ưu tiên kiềm chế lạm phát là đúng đắn và cần thiết, nhưng Chính phủ đã lường trước hiệu ứng phụ của nó.

Vì vậy, trong khi nhất quán, đồng bộ, quyết liệt, kiềm chế lạm phát, Chính phủ đã có 2 nhóm giải pháp để hạn chế và khắc phục hậu quả của những hiệu ứng phụ này.

Thứ nhất, bảo đảm an sinh xã hội. Trong điều kiện thu, chi ngân sách còn mất cân đối, phải giảm tỷ lệ bội chi ngân sách so với GDP để kiềm chế lạm phát, nhưng Chính phủ đã có nhiều chính sách để giảm bớt khó khăn cho người dân trước tác động tiêu cực của lạm phát, với nhiều giải pháp cụ thể. Tăng quy mô, mở rộng diện và điểm bán hàng bình ổn giá. Thực hiện việc hỗ trợ cho các hộ nghèo, trợ cấp cho cán bộ công chức, người về hưu, các đối tượng chính sách có mức thu nhập thấp. Từ 1/5 thực hiện việc điều chỉnh lương tối thiểu, điều chỉnh lương hưu và trợ cấp.

Thứ hai, ngăn chặn tác động tiêu cực đối với sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đối với các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ yêu cầu giảm đầu tư ngoài ngành để tập trung cho lĩnh vực chuyên môn chính. Một mặt giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng, mặt khác chuyển dịch cơ cấu tín dụng để tập trung cho nông nghiệp, nông thôn, sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, Chính phủ đã cho giảm và chậm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, để giảm bớt khó khăn cho khu vực này. Chính phủ cũng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại thực hiện việc giảm lãi suất cho vay hiện đang ở mức rất cao.

Như vậy, trong khi thực hiện các biện pháp tình thế là rất cần thiết để ứng phó nhanh với lạm phát, ngăn chặn tác động tiêu cực của nó, thì cần quan tâm hơn nữa đến các biện pháp cơ bản để kiềm chế lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế là nâng cao hiệu quả đầu tư và nâng cao năng suất lao động.

Nguồn: Chinhphu.vn