
Tin tức
Nhất quán trong cải cách kinh tế (14/04)
14/04/2011 - 17 Lượt xem
Thực tế, trước và sau khi tham gia WTO, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực cải cách hệ thống luật pháp theo hướng nói trên. Tuy nhiên, quá trình này đã bị chững lại khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra và thậm chí quay ngược trở lại khi Việt Nam áp dụng nhiều biện pháp tình thế để chống chọi với suy thoái kinh tế. Điều đáng nói là tâm lý sử dụng những biện pháp hành chính, nặng tính chủ quan đang khá phổ biến vì trông bề ngoài chúng có thể giúp giải quyết những vấn đề nhức nhối trong đời sống kinh tế như để chống lạm phát, bình ổn thị trường, bình ổn tỷ giá…
Không thể dùng suy thoái kinh tế để biện minh cho việc sử dụng biện pháp tình thế, biện pháp hành chính trong điều hành kinh tế bởi chính càng khó khăn, chúng ta càng cần áp dụng những quy luật đã hình thành ở các nước để dùng chính thị trường giải quyết những vấn đề của thị trường. Bài học cải cách hệ thống luật lệ, nhất là trong lĩnh vực ngân hàng của các nước Đông Nam Á sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 đã chứng minh điều đó.
Ở đây, chúng ta chỉ cần nhìn vào một ví dụ minh họa để thấy rõ hơn điều này. Lãi suất huy động ở Việt Nam tiến từ chỗ thỏa thuận giữa ngân hàng và người gửi tiền đi đến chỗ Ngân hàng Nhà nước ấn định một mức trần 14%. Những tưởng mức trần này sẽ giúp chặn đứng cuộc đua lãi suất, gián tiếp kéo lãi suất cho vay xuống thấp. Thực tế báo chí ghi nhận trong thời gian qua cho thấy mệnh lệnh hành chính này bị phá vỡ khi giới ngân hàng tìm mọi cách để lách luật. Người bị thiệt hại là người gửi tiền không có khả năng mặc cả với ngân hàng, phải chịu mức trần cứng nhắc.
Ngược lại, lãi suất cho vay hiện đang được thả nổi nên người bị thiệt hại thứ nhì là giới đi vay để sản xuất, kinh doanh phải chịu mức lãi suất cao. Rõ ràng biện pháp tình thế mà luật chỉ cho áp dụng trong trường hợp “bất thường” đã không có tác dụng mong muốn.
Những trường hợp can thiệp tương tự vào thị trường hiện đang xảy ra rất nhiều tại Việt Nam, từ chuyện kê khai, đăng ký giá một số mặt hàng mà thực tế đem lại rất ít kết quả đến những cuộc vận động mang tính phong trào như bình ổn giá trong giáo dục! Giả sử các trường cùng nhau ký một cam kết không tăng các khoản thu tiền ăn trưa cho học sinh trong bối cảnh giá cả ngoài chợ vẫn tăng thì đương nhiên chất lượng bữa ăn của các em sẽ giảm xuống, sức khỏe của các em sẽ bị ảnh hưởng, lúc đó chất lượng giáo dục liệu có được bảo đảm?
Thiết nghĩ nền kinh tế Việt Nam đã lớn đến mức không thể dựa vào các phong trào mang tính vận động ngày xưa để vận hành. Tất cả đều phải theo một hệ thống luật lệ và hệ thống này cần phải trước sau như một để mọi người cùng dựa vào đó như một luật chơi duy nhất cần học thuộc và tuân thủ.
Nguồn: TBKTSG
