
Tin tức
Hiểu rõ để làm đúng (15/04)
15/04/2011 - 30 Lượt xem
Tuy nhiên trong hầu hết các văn kiện lại chưa có định nghĩa rõ ràng thế nào là “đổi mới mô hình tăng trưởng” và “tái cấu trúc nền kinh tế”. Nhiều chuyên gia cũng như các nhà hoạch định chính sách cũng còn rất “mơ hồ” khi bàn luận và trao đổi về biện pháp cụ thể để đổi mới mô hình tăng trưởng cũng như tái cơ cấu nền kinh tế. Bài viết này hy vọng cung cấp một cách nhìn đơn giản và rõ ràng hơn cho hai nhiệm vụ nói trên.
Các nhà kinh tế đưa ra nhiều lý thuyết về những yếu tố cơ bản tạo ra tăng trưởng kinh tế nhưng tóm lại có thể mô tả “nguồn gốc” của tăng trưởng bao gồm bốn yếu tố: (i) gia tăng đầu vào (input increase), (ii) nâng cao hiệu quả kỹ thuật (technical efficiency), (iii) nâng cao hiệu quả phân bổ (allocative efficiency), và (iv) sự phát triển của khoa học - công nghệ (technological progress). Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng những thành tựu về tăng trưởng kinh tế trong gần 30 năm đổi mới vừa qua ở nước ta dựa quá nhiều vào gia tăng yếu tố đầu vào như vốn đầu tư - tín dụng, máy móc, nhà xưởng (tài sản cố định), khai thác và xuất khẩu tài nguyên, gia tăng số lượng lao động...
Do đó, “đổi mới mô hình tăng trưởng” phải được hiểu là chuyển đổi cách thức mà chúng ta đang tạo ra tăng trưởng kinh tế từ liên tục gia tăng các yếu tố đầu vào (kênh thứ nhất) sang ba kênh còn lại là nâng cao hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân bổ và ứng dụng rộng rãi hơn các tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Ba yếu tố này cũng chính là cơ sở để nền kinh tế có thể chuyển từ tăng trưởng “theo chiều rộng” sang tăng trưởng “theo chiều sâu”.
Trước hết, hiệu quả kỹ thuật (technical efficiency) trong sản xuất kinh doanh gắn với yếu tố con người và kỹ năng sử dụng máy móc, thiết bị trong sản xuất, kỹ năng quản trị doanh nghiệp, kỹ năng hoạch định chính sách, R&D... Các nhà đầu tư đến Việt Nam thường có nhận định chung chung là “nhân công rẻ nhưng kỹ năng thấp”. Lao động ở đây cần được hiểu là bao gồm cả công nhân sản xuất, đội ngũ quản lý và đội ngũ hoạch định chính sách. Kỹ năng thấp không chỉ trong vận hành các dây chuyền sản xuất, chế tạo sản phẩm mà còn “thấp” trong quản lý doanh nghiệp, quản trị quốc gia và hoạch định chính sách.
Đổi mới mô hình tăng trưởng phải gắn với nâng cao hiệu quả kỹ thuật mà cụ thể là cải cách triệt để hệ thống giáo dục - đào tạo, điểm nghẽn lớn nhất trong phát triển kinh tế hiện nay như nhiều người nhận định, đặc biệt là đào tạo nghề cho bốn ngành được coi như “công nghiệp hỗ trợ cơ bản” của nền kinh tế là cơ khí chế tạo chi tiết và ngành sản xuất chi tiết, linh kiện đồ nhựa, điện tử và sản phẩm hóa chất vì các doanh n ghiệp trong bốn ngành này có thể cung cấp sản phẩm hỗ trợ cho hầu hết các ngành sản xuất sản phẩm cuối cùng khác (chỉ chiếm khoảng 10% doanh nghiệp trong nền kinh tế).
Thứ hai, việc sáng tạo tiến bộ khoa học - công nghệ (technological progress) là điều chưa thực tế ở Việt Nam nhưng chủ động tiếp thu và ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ để tạo ra những đột phá trong tăng trưởng thì có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên, theo một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), công nghiệp nước ta vẫn chủ yếu dựa vào các ngành sử dụng tài nguyên thô, hàm chứa ít công nghệ (chiếm 50%) trong khi tỷ trọng ngành có công nghệ cao và trung bình chỉ chiếm khoảng 25%. Hầu hết doanh nghiệp nhỏ và vừa đều đang sử dụng công nghệ lạc hậu từ 3-4 thế hệ so với công nghệ mới hiện nay. Bộ Khoa học
Công nghệ cũng có nghiên cứu đánh giá trình độ các ngành sản xuất và nói chung đều ở mức trung bình, trung bình thấp và thấp so với các nước trong khu vực và thế giới. Đóng góp vào GDP của nhóm sản phẩm công nghệ cao chỉ chiếm 5,73% GDP và dịch vụ công nghệ cao là 2,12%. Khoảng 90% công nghệ nhập từ nước ngoài có trình độ trung bình và lạc hậu và mức đầu tư, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam chỉ chiếm khoảng 0,2-0,3% doanh thu của doanh nghiệp.
Cuối cùng và khả thi nhất trong điều kiện nước ta hiện nay là thay đổi cách thức phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế (allocative efficiency), bao gồm vốn - tín dụng, đất đai, tài nguyên... tới những ngành, khu vực có hiệu quả sản xuất cao hơn mà chính điều này sẽ làm thay đổi cơ cấu ngành, cơ cấu đầu tư, cơ cấu thành phần kinh tế hiện được coi là đã lỗi thời ở nước ta, hay đó chính là việc “tái cơ cấu nền kinh tế”.
Nói cách khác, “tái cơ cấu nền kinh tế” không thể thực hiện bằng các quyết định hành chính mà cần thực hiện thông qua việc thay đổi cách thức phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế tới những ngành, thành phần, khu vực có lợi thế so sánh và có thể sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn trong sản xuất kinh doanh.
Chúng ta hiện đang dành quá nhiều ưu đãi cho đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn lớn và cách phân bổ này không chỉ trực tiếp gây ra sự yếu kém về năng lực sản xuất nói chung mà còn góp phần khiến nền kinh tế luôn đối diện với những mất cân đối vĩ mô quan trọng như chênh lệch tiết kiệm - đầu tư , thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân sách. Khu vực nhà nước chiếm một phần ba tổng đầu tư xã hội nhưng chỉ sử dụng được 9% lao động trong khi khu vực ngoài nhà nước đóng góp 47% GDP và sử dụng tới 87% lao động.
Phân bổ vốn đầu tư cũng còn nhiều bất cập khi trong giai đoạn 2000-2008, 72% vốn đầu tư xã hội chỉ tập trung vào 20 ngành như khai thác than, dầu khí, điện, bất động sản, khách sạn, giao thông đường bộ, quản lý nhà nước... trong khi nhiều lĩnh vực quan trọng khác chưa được quan tâm đúng mức
Một nghiên cứu thực nghiệm trong khuôn khổ dự án “Chính sách kinh tế vĩ mô” của Ủy ban Kinh tế đã chỉ ra rằng 1% tăng thêm của đầu tư tư nhân có thể đóng góp thêm 0,33% cho tăng trưởng trong khi 1% đầu tư công chỉ đóng góp thêm 0,23% sản lượng. Ngoài ra, tăng 1% đầu tư công sau 10 năm còn khiến đầu tư tư nhân bị thu hẹp 0,48% (crowding-out effect).
Như vậy, mô hình tăng trưởng thời gian tới cần thay đổi từ chủ yếu nhờ gia tăng đầu vào sang tăng trưởng dựa vào nâng cao hiệu quả kỹ thuật, cải thiện hiệu quả phân bổ và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, trong đó thay đổi cách thức phân bổ nguồn lực sẽ làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng hiệu quả hơn và là hợp phần mang tính đột phá giúp đổi mới mô hình tăng trưởng. Có thể thấy dư địa cho đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế còn khá nhiều và sẽ khả thi hơn nếu những “khẩu hiệu” nói trên được cụ thể hóa thành hành động (action plan) trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm năm 2011-2015 với lộ trình rõ ràng để Quốc hội có thể giám sát và đánh giá hiệu quả.
Nguồn: TBKTSG
