
Tin tức
Kinh tế Việt Nam: Bảo đảm ổn định vĩ mô để phát triển bền vững (04/05)
04/05/2011 - 20 Lượt xem
Vượt qua những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, trong 3 năm 2008-2010, Việt Nam đã khá thành công trong việc điều hành linh hoạt các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là chính sách tài chính và tiền tệ, nhằm ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, giữ ổn định hệ thống tài chính - tín dụng - ngân hàng và phục vụ các mục tiêu an sinh - xã hội. Tuy nhiên, cùng lúc này, nền kinh tế càng bộc lộ rõ nét hơn những tồn tại yếu kém từ nội tại cơ cấu kinh tế cần được nhận diện để gắn nhiệm vụ trước mắt với mục tiêu trung - dài hạn trong các chính sách phát triển.
Thật vậy, bước vào năm 2010, nền kinh tế Việt Nam đã xuất hiện dấu hiệu tái lạm phát cao, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã chuyển sang giai đoạn hồi phục. Điều này đã đặt Việt Nam đứng trước 2 mục tiêu kinh tế vĩ mô mâu thuẫn phải giải quyết cùng lúc: vừa kiềm chế lạm phát, vừa thúc đẩy phục hồi tốc độ tăng trưởng. Kết quả là, năm 2010, kinh tế tăng trưởng (GDP) 6,78%, nhưng không kiềm chế được tốc độ lạm phát như mục tiêu đề ra (CPI tăng 11,75% so với mục tiêu 8%). Bên cạnh đó, sự biến động giá cả trên thị trường thế giới, nhất là giá lương thực, thực phẩm và dầu thô đã ảnh hưởng đến giá cả trong nước.
Sang năm 2011, nền kinh tế đứng trước thách thức gay gắt. Trước tiên là áp lực lạm phát cao. Quý I, chỉ số CPI tăng hơn 6% so với cuối năm 2010 và còn tiếp tục tăng, trong điều kiện lãi suất huy động tiết kiệm khá cao (14%/năm). Thứ hai, VND mất giá so với USD, buộc Ngân hàng Nhà nước phải điều chỉnh tỷ giá thêm 9,3% để xoá tình trạng 2 giá trên thị trường. Sự bất ổn kinh tế vĩ mô tác động đến niềm tin của thị trường đòi hỏi Chính phủ phải quyết tâm chuyển hướng chính sách mạnh trong năm 2011: ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội.
Những khó khăn trước mắt của nền kinh tế có nguyên nhân bên ngoài, nhưng chủ yếu bắt nguồn từ các nguyên nhân sâu xa của cơ cấu kinh tế kéo dài trong nhiều năm. Trong đó, nổi bật 3 vấn đề:
Thứ nhất, sức cạnh tranh của nền kinh tế đang yếu sức trong cuộc chạy đua toàn cầu, khi Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đầu năm 2007. Sự kéo dài quá lâu mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều ngang, chủ yếu dựa vào sự tăng vốn đầu tư, sử dụng lao động rẻ, khai thác tài nguyên thô và gia công hàng xuất khẩu..., thể hiện qua các chỉ báo như: hệ số ICOR, tỷ trọng giá trị gia tăng/giá trị sản xuất, cơ cấu hàng xuất khẩu, năng suất lao động, tổng yếu tố của tăng trưởng...
Thứ hai, tình trạng nhập siêu, thâm hụt cán cân vãng lai kéo dài gây mất cân đối cung cầu ngoại hối, gây áp lực giảm giá trị VND. Một nền kinh tế hướng vào xuất khẩu, nhưng sau 20 năm vẫn trong tình trạng nhập siêu ngày càng nặng; sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều dựa vào nhập khẩu, gia công công đoạn cuối cùng để tiêu dùng trong nước. Nếu căn cứ vào cơ cấu xuất - nhập khẩu hàng hoá và bảng cân đối tài khoản vãng lai (xuất - nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ), có thể nhận ra rằng, thị trường Việt Nam vẫn nghiêng về thị trường tiêu thụ bán thành phẩm và thành phẩm nhập khẩu.
Thứ ba, đầu tư công thiếu hiệu quả cùng với bội chi ngân sách ngày càng nặng. Tình trạng bội chi ngân sách so với GDP ngày càng tăng, đầu tư công thiếu đồng bộ và không tuân thủ nguyên tắc chi phí cơ hội đã góp phần tăng nhanh hệ số ICOR. Trong 10 năm qua, để thúc đẩy tăng GDP, khu vực đầu tư công tăng nhanh, thu hút một khối lượng tín dụng khá lớn; trong đó một phần bội chi ngân sách dựa vào tín dụng thương mại. Ngay cả trái phiếu của Chính phủ cũng dựa chủ yếu vào ngân hàng thương mại, phần huy động trực tiếp từ công chúng chiếm tỷ trọng nhỏ. Một khối lượng tiền khá lớn đưa vào khu vực này, nhưng do tiến độ đầu tư kéo dài, thiếu đồng bộ, nên không tạo được khối lượng tài sản tương ứng, vừa không tác động đến tăng trưởng kinh tế, vừa tăng áp lực lên tổng cầu góp phần vào lạm phát.
Ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô
Trong bối cảnh đầy khó khăn như trên, mặc dù ngay từ đầu năm 2011, Chính phủ đã đưa ra thông điệp tập trung ổn định vĩ mô, nhưng vẫn chưa tạo được niềm tin cho thị trường về triển vọng một nền kinh tế ổn định. Kỳ vọng lạm phát cao và mất giá VND dẫn đến tình trạng găm giữ và đầu cơ ngoại tệ, áp lực mạnh đến tỷ giá và lãi suất. Thị trường chưa tin tưởng rằng, Chính phủ ổn định được tỷ giá, phát sinh tâm lý găm giữ ngoại tệ, trong điều kiện nền kinh tế bị đô-la hoá nên càng khó khăn. Hiện tượng đầu cơ USD đã tạo áp lực mạnh lên cung cầu thị trường ngoại tệ. Sự mất giá liên tục của VND trong vài năm gần đây, trong bối cảnh USD lại mất giá trên thị trường thế giới và hầu hết đồng tiền của các nền kinh tế mới nổi đều tăng giá so với USD... thể hiện nền kinh tế Việt Nam yếu kém về mặt cơ cấu. Sự thâm hụt cán cân vãng lai, bội chi ngân sách nhà nước và tăng nhanh dư nợ tín dụng ngắn hạn là những nguyên nhân trực tiếp gây bất ổn vĩ mô.
Trước tình hình đó, Nghị quyết 11/2011/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ đã ban hành gói giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, có thể xem là “liều thuốc mạnh” không chỉ mang tính tình thế, mà còn tạo điều kiện thực hiện các chính sách kinh tế - tài chính hướng đến một nền kinh tế vĩ mô ổn định cho những năm sau.
Trong 6 nhóm giải pháp, có thể nói, 2 nhóm giải pháp về tiền tệ và tài khoá đóng vai trò quyết định đối với mục tiêu kiềm chế lạm phát: chính sách tiền tệ “chặt chẽ, thận trọng” với kế hoạch kéo giảm tốc độ tăng tín dụng năm 2011 ở mức dưới 20% và tổng phương tiện thanh toán ở mức 15-16% đủ để bảo đảm nguồn tín dụng cho yêu cầu sản xuất - kinh doanh, nhưng phải hạn chế việc sử dụng nguồn tín dụng thương mại chảy vào kênh đầu cơ trên thị trường bất động sản và chứng khoán.
Chính sách tài khoá có tính chất mạnh mẽ hơn: “thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước”, với nhiều biện pháp cụ thể như cắt giảm chi thường xuyên 10%; không ứng vốn ngân sách, trái phiếu chính phủ năm 2012; không kéo dài thời gian thực hiện dự án; ngưng, đình hoãn, giãn tiến độ các công trình đầu tư năm 2011 chưa cấp bách; rà soát các dự án đầu tư của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước..., nhằm kéo giảm bội chi ngân sách nhà nước dưới 5% GDP trong năm nay.
Các biện pháp trên chắc chắn sẽ tác động làm giảm tổng cầu của nền kinh tế và do đó cũng sẽ giảm nhập siêu và giảm nợ công, tạo điều kiện để hướng đến mục tiêu xa hơn là giải quyết các cân đối vĩ mô như thu - chi ngân sách; cán cân vãng lai; tiết kiệm - đầu tư; tích lũy - tiêu dùng... Nếu nhìn lại các chính sách công cụ kinh tế vĩ mô thực hiện trong 3 năm qua, thì lần này thể hiện khá đồng bộ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá, để cùng hướng đến mục tiêu thực sự ưu tiên kiềm chế lạm phát, nên khi được thực thi triệt để, chắc chắn sẽ đạt kết quả.
Song song với việc thực hiện các giải pháp trên, Chính phủ đang xây dựng một lộ trình giảm đô-la hoá nền kinh tế, kiểm soát thị trường vàng (được nêu trong Nghị quyết 11) và các chính sách để thực hiện kế hoạch tái cấu trúc và chuyển đổi mô hình tăng trưởng cho những năm tiếp theo. Kinh tế Việt Nam đang hướng đến sự hoàn thiện các quan hệ thị trường, nhưng thiết nghĩ, cần đổi mới tư duy theo quan điểm: Nhà nước sử dụng các chính sách, biện pháp và công cụ để tác động vào thị trường theo định hướng của Nhà nước; chính thị trường sẽ tác động vào sự định hướng đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp, chứ không phải Nhà nước. Các biện pháp hành chính chỉ nhằm hỗ trợ cho thị trường, chứ không thay thị trường.
Hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, từ chính sách tài khoá thắt chặt lần này, nên nghĩ đến việc tái cấu trúc đầu tư và chi tiêu công, nhằm xây dựng một nền tài chính công tích cực và hiệu quả. Nguyên nhân sâu xa của sự bất ổn kinh tế vĩ mô tiềm ẩn trong cơ cấu của nền kinh tế, trong đó có cơ cấu thị trường tài chính nói chung và chính sách tài khóa nói riêng. Nhiệm vụ chính sách tài chính - tiền tệ không chỉ hướng vào các giải pháp tình thế phục vụ các mục tiêu ngắn hạn, mà phải lồng ghép và tạo sự đồng bộ trong việc thực hiện các chính sách công cụ điều tiết vĩ mô, nhằm từng bước cơ cấu lại thị trường tài chính, tạo điều kiện để phát triển bền vững, phục hồi niềm tin của nhà đầu tư hướng vào các hoạt động dài hạn.
Việc triển khai thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ trong hơn 2 tháng qua thể hiện sự quyết tâm của Nhà nước và sự đồng thuận của xã hội hướng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cần thiết để thực hiện lộ trình tái cấu trúc và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế. Để hỗ trợ cho những nỗ lực của Chính phủ trong việc thực hiện gói giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô và triển khai thực hiện nhiệm vụ của năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội 2011-2015, kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá 12 vào cuối tháng 3/2011 đã ban hành Nghị quyết nhấn mạnh: “Khẩn trương thực hiện định hướng, xác định rõ lộ trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nhất là cơ cấu lại việc phân bổ các nguồn lực cho các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế một cách hợp lý, hoàn thiện cơ chế chính sách xã hội hoá đầu tư; đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước; công khai, minh bạch thông tin về tình hình tài chính, hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước”
Nguồn: Đầu tư
