
Tin tức
Xây dựng nông thôn mới để nâng chất lượng đô thị hóa (10/05)
10/05/2011 - 67 Lượt xem
Tỷ lệ dân số thành thị trong tổng dân số của cả nước mấy năm nay tăng nhanh, nhưng vẫn còn thấp so với thế giới, đồng thời cũng xuất hiện những hạn chế, bất cập. Cần nhận diện để tránh lặp lại trong thời gian tới, khi tốc độ đô thị hoá nhanh hơn.
![]() |
Tỷ lệ dân số thành thị của Việt Nam từ 1930-2010. - Nguồn: Tổng cục Thống kê |
Nhìn vào biểu đồ trên, có thể thấy, từ năm 1951 trở về trước, tỷ lệ dân số thành thị của Việt Nam mới ở mức từ 10% trở xuống; những năm trước và sau giải phóng ở mức trên 20%, nhiều năm sau đó ở mức dưới 20%; từ 1993 đến nay đã vượt qua mốc 20% và năm 2010 đã đạt xấp xỉ 30%.
Tuy đã tăng tương đối nhanh trong mươi năm nay, nhưng tỷ lệ dân số thành thị của Việt Nam còn thấp. Tỷ lệ dân số thành thị năm 2009 của Việt Nam đứng thứ 8/11 nước trong khu vực, đứng thứ 41/51 nước và vùng lãnh thổ ở châu Á và đứng thứ 172/208 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Tính đến đầu năm 2010, trong tổng số 11.112 đơn vị hành chính cấp xã, thì số phường là 1.366, số thị trấn là 625, như vậy số đơn vị thành thị là 1.991, chiếm 17,9%; trong tổng số 697 đơn vị hành chính cấp huyện thì thành phố thuộc tỉnh có 48, quận có 47, thị xã có 46, cộng 141, chiếm 20,2% tổng số; trong tổng số 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh, có 5 thành phố trực thuộc Trung ương.
Bộ mặt đô thị đã có nhiều thay đổi cả về bề rộng, cả về chiều cao. Sự phát triển của đô thị xuất phát từ việc mở rộng các thành phố, thị xã, thị trấn hiện có; từ việc nâng cấp từ thị trấn lên thị xã, từ thị xã lên thành phố thuộc tỉnh, từ cấp bốn lên cấp ba, từ cấp ba lên cấp hai, từ cấp hai lên cấp một, cấp đặc biệt; từ việc hình thành các đô thị mới.
Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến cuối thập kỷ này cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, quá trình đô thị hoá sẽ diễn ra với tốc độ nhanh hơn nữa, tỷ lệ dân số thành thị sẽ cao lên.
Tuy nhiên, cần phải tư duy lại cả về tầm nhìn, cả về chất lượng, đối với việc đô thị hoá, để tránh những hạn chế, bất cập trong thời gian qua, tiếp thu kết quả thành công cũng như tránh những hạn chế, bất cập của những nước đi trước.
Những hạn chế, bất cập trong việc đô thị hoá thời gian qua thể hiện trên nhiều mặt. Đô thị hoá vẫn chủ yếu theo chiều rộng, tức là thiên về sự xuất hiện các đô thị mới hoặc mở rộng các đô thị cũ, lấn dần vào “tam nông”. Đất đai nông nghiệp bị mất đi hàng năm với diện tích không nhỏ, nhiều nơi là “bờ xôi, ruộng mật”.
Số lao động trẻ, khoẻ, có trình độ tay nghề, số người có vốn liếng rời bỏ nông thôn, tạo thành dòng người ra thành phố, trong khi tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở thành phố vẫn còn cao, việc quản lý đô thị vẫn còn khó khăn, phức tạp.
Xu hướng đô thị hoá nông thôn có biểu hiện nông thôn hoá thành thị. Việc quản lý đô thị vốn đã có những hạn chế, bất cập, nay lại càng gặp khó khăn. Nạn ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường gia tăng,… Chất lượng sống ở đô thị chậm được cải thiện; một số mặt còn bị xuống cấp nghiêm trọng...
Để khắc phục những hạn chế, bất cập trên, để phù hợp với quá trình đô thị hoá cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần phải mở rộng tầm nhìn, nâng cao chất lượng đô thị hoá.
Về tầm nhìn, việc đô thị hoá cần được tiến hành theo hướng “ly nông bất ly hương”- chuyển lao động làm nông, lâm nghiệp - thuỷ sản sang làm công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, nhưng không bằng con đường chuyển lao động ở khu vực nông thôn kéo ra thành thị, mà phải bằng xây dựng nông thôn mới theo tiêu chí đã đề ra; hình thành các thị trấn, khu vực dân cư mới ở vùng nông thôn. Khuyến khích những người có vốn đưa vốn về nông thôn xây dựng cơ sở công nghiệp, dịch vụ để hỗ trợ cho sản xuất nông, lâm nghiệp- thuỷ sản (bao gồm việc sản xuất nông cụ, cung cấp vật tư đầu vào, cơ sở chế biến để làm tăng giá trị sản phẩm, hình thành và nâng cấp các chợ nông thôn, hình thành các kho bảo quản, dự trữ, xuất khẩu,…).
Tại đô thị, cải thiện điều kiện nhà ở, cung cấp nước sạch, khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường do tiếng ồn, do bụi bặm, do rác thải, do nước thải,… kiện toàn chính quyền quản lý đô thị, khắc phục và tránh lặp lại tình trạng nhà siêu mỏng, ngã tư méo, ngã ba lệch, lấn chiếm vỉa hè, lòng đường, nhà nghiêng, dây diện chằng chịt, lô cốt, ngập nước,…
Đặc biệt, xây dựng nông thôn mới theo đúng các tiêu chí đã quy định và phù hợp với điều kiện từng nơi, đặc biệt quan tâm đến công tác quy hoạch, nâng cấp điện, đường, trường, trạm, chợ, nước hợp vệ sinh, các công trình văn hoá,…
“Tam nông” vẫn được bảo tồn, sống trong môi trường tự nhiên trong lành, trong một xã hội thân thiện, tình nghĩa cộng đông; đồng thời người dân ở nông thôn cũng sẽ hưởng những giá trị ưu việt và ảnh hưởng tích cực của văn minh đô thị, nhờ các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật trong sinh học, tin học, cơ khí, điện khí hoá, tự động hoá được đưa vào trong sản xuất, làm tăng năng suất lao động, nâng cao giá trị tăng thêm trên mỗi đơn vị diện tích đất. Người nông dân được thụ hưởng các dịch vụ của đô thị, như điện, nước sạch, y tế, giáo dục, bưu chính viễn thông, bảo hiểm y tế,…’
Nguồn: Chinhphu.vn
