
Tin tức
Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Khát vốn (13/06)
13/05/2011 - 19 Lượt xem
Trong khi đó, việc tiếp cận vốn đang là một trong những rào cản chính đối với khu vực kinh tế này, đặc biệt là nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng, ngân hàng (NH).
Hiện mức lãi suất trần huy động vốn của NHNN quy định đối với các NH thương mại là 14%/năm, lãi suất cho vay trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh xê dịch khoảng 17-18%/năm. Tuy nhiên, thực tế một số NH đã huy động vốn bằng cách nâng mức lãi suất lên từ 15%-19%/1 năm tuỳ vào thời điểm và số lượng tiền gửi.
Theo ông Cao Sỹ Kiêm – Chủ tịch Hiệp hội DNNVV Việt Nam, thì năm 2011 sẽ có nhiều thách thức đối với các DNNVV do kinh tế có chuyển biến và đổi mới tương đối tốt, nhưng vẫn còn một số tồn tại như thể chế quản lý, quản lý vĩ mô, hạ tầng, chất lượng nguồn lực, thủ tục hành chính.
Mặt khác, việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng của các DNNVV hiện rất khó khăn; do vậy DN phải có định hướng SX, chi phí... sai đó đến phương hướng vay trả; sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước, các cơ quan chức năng; sự hỗ trợ của cộng đồng để các DN có điều kiện tiếp tục phát triển. Vì chính những DNNVV luôn phải gánh các phần khuyết mà các DN lớn không “ôm” được.
Thực tế, ngoài vay vốn NH, DN có thể tìm vốn qua hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu, mua chịu hàng hoá, đi thuê tài chính hay liên doanh liên kết. Thị trường chứng khoán được xem là kênh huy động vốn quan trọng của nhiều DN với các hình thức khác nhau như gọi vốn từ cổ đông, chào bán riêng lẻ cho đối tác, công nhân viên chức... Tuy nhiên, việc các DN phát hành ồ ạt lại khiến thị trường chứng khoán bị bội thực nguồn cung, không đem lại hiệu quả như mong muốn cho các DN cần huy động vốn. Theo số liệu của điều tra từ Bộ KHĐT, chỉ có 1/3 số DNNVV có khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, 1/3 khó tiếp cận và 1/3 không tiếp cận được. Nguyên nhân của tình trạng trên là do các DNNVV không đáp ứng đủ điều kiện vay. Nhiều DNNVV cho rằng, thủ tục ngân hàng đặt ra là “quá sức” đối với họ, ngay cả khi được hưởng chính sách ưu đãi của Chính phủ. Việc huy động vốn với lãi suất trần vượt quy định đồng nghĩa với việc lãi suất cho vay cũng sẽ được nâng lên từ 20-22%/năm. Một số NH còn tự đặt ra nhiều loại phí, khiến mức lãi suất thật các DNNVV phải vay có thể lên đến 27%. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến các DN thực sự cần vay vốn để sản xuất kinh doanh.
“Trước tiên phải tự cứu mình”
Còn theo ông Vũ Văn Dũng – Tổng Thư ký Hiệp hội DNNVV, thì hàng năm khối này đóng góp 40% GDP và thường xuyên giải quyết việc làm 50% LĐ cả nước và mỗi năm đã tạo việc làm mới cho trên 1 triệu LĐ (phần lớn là LĐ chưa qua đào tạo). Thực tế, bài toán về vốn của các DNNVV luôn ở tình cảnh tiến thoái lưỡng nan. Mặt khác, khối này cũng chưa chú ý đến phát triển công nghiệp phụ trợ.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia kinh tế tài chính cho rằng, các DN phải tìm cách tự cứu mình trước khi cầu cứu các NH. Ngoài khó khăn về vốn, điểm yếu của khối DNNVV là LĐ phần lớn chưa qua đào tạo, trình độ tay nghề thấp, thu nhập thấp không thu hút được LĐ có tay nghề, từ đó khó có thể cạnh tranh được với các DN lớn. Đây là vấn đề xã hội cần được các cơ quan chức năng nghiên cứu giải quyết, để tạo một sân chơi công bằng giữa các DN lớn và các DNNVV.
Một số chuyên gia kinh tế khẳng định, phương châm đầu tiên giúp cho các DN vượt qua giai đoạn lạm phát như hiện nay là “tự cứu mình trước khi trời cứu”. Các DNNVV phải tự tìm kiếm cơ hội trong sản xuất và nghiên cứu thị trường liên tục biến động của đất nước và thế giới như hiện nay. Đồng thời, nỗ lực hơn bao giờ hết và cần tăng cường hơn nữa chuỗi liên kết cung ứng, trong hiệp hội, ngành, vùng. Không chỉ có vậy, các DN cần nắm bắt các cơ hội mới khi Nhà nước tái cấu trúc kinh tế.
Để “tự cứu mình”, GĐ Cty TNHH may Thanh Sơn tại Lý Nhân, Hà Nam cho biết, chủ trương thắt chặt nguồn tín dụng ảnh hưởng lớn đến SXKD của DN trong việc huy động vốn. Nếu DN nào vượt qua được giai đoạn khó khăn này mới khẳng định được mình trên thị trường.
Trước mắt, Cty may Thanh Sơn đã chọn giải pháp tối ưu là tiết kiệm tối đa chi phí SXKD, duy trì nhà máy để chờ cơ hội mới; đồng thời phải tinh giản và lựa chọn đối tác để tăng vòng quay của vốn, giảm tối đa sự phụ thuộc vào ngân hàng. Đặc biệt là phải tính toán, hạn chế nợ đến mức thấp nhất, tránh rủi ro trong SXKD.
Nguồn: Lao động
