Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Chuyển đổi mô hình tăng trưởng - sứ mệnh của nhiệm kỳ mới (16/05)

16/05/2011 - 23 Lượt xem

Chuyển đổi mô hình tăng trưởng

Tăng trưởng có 2 mô hình: tăng trưởng theo chiều rộng, tăng trưởng theo số lượng và tăng trưởng theo chiều sâu, tăng trưởng theo chất lượng.

Nói chuyển đổi mô hình tăng trưởng không có nghĩa là bỏ hoàn toàn mô hình này để hoàn toàn sử dụng mô hình khác, bởi chiều rộng hay chiều sâu, số lượng hay chất lượng là một quá trình phát triển (đều dựa vào việc sử dụng các yếu tố đầu vào là vốn, lao động,…), chỉ khác nhau về cấp độ (chủ yếu hay ưu tiên).

Khi mới chuyển đổi và mở cửa hội nhập, việc tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, theo số lượng, vừa là tất yếu từ điểm xuất phát còn thấp, vừa là sự cần thiết để khai thác các lợi thế về lượng lao động, về thu hút vốn từ các thành phần kinh tế trong nước (xuất hiện sau đổi mới) và từ nước ngoài (sự hấp dẫn của nền kinh tế chuyển đổi và xuất hiện sau mở cửa hội nhập), về thể chế (sau khi chuyển từ kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường).

Nhưng nếu duy trì cấp độ “chủ yếu” theo chiều rộng, theo số lượng quá lâu, một mặt sẽ gặp giới hạn về lượng vốn đầu tư (do tiết kiệm trong nước còn thấp), về số lượng lao động (do tốc độ tăng dân số giảm dần); mặt khác, những hạn chế, bất cập của mô hình này sẽ xuất hiện và ngày một lộ ra (như tiềm ẩn lạm phát, bất ổn kinh tế vĩ mô, dễ sa vào “bẫy” thu nhập trung bình,…). Kết quả là tăng trưởng không bền vững, tăng trưởng nhưng không có phát triển, “tăng cao, trưởng thấp”, tốc độ tăng trưởng chậm lại (suy giảm), thậm chí còn tăng trưởng âm (suy thoái).

Vì vậy, phải chuyển sang tăng trưởng chủ yếu theo chiều sâu, tăng trưởng theo chất lượng, vừa để khắc phục các hạn chế, bất cập, vừa để tận dụng các tác động tích cực của mô hình tăng trưởng cũ; đồng thời phát huy ưu thế của mô hình tăng trưởng mới.

Về vốn đầu tư, không thể tăng mãi tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội/GDP, bởi từ mấy năm nay tỷ lệ này của nước ta đã vượt quá mốc 40%, thuộc loại cao nhất trên thế giới và vượt xa so với tỷ lệ tiết kiệm/GDP. Nếu tăng cao nữa thì sẽ dẫn đến hai hiện tượng, đó là tăng trưởng kinh tế nóng và gia tăng nợ nước ngoài.

Tăng trưởng kinh tế nóng sẽ dẫn đến lạm phát, bất ổn kinh tế vĩ mô. Nợ nước ngoài gia tăng không chỉ ảnh hưởng đến an ninh kinh tế quốc gia, mà còn chịu rủi ro về tỷ giá,…

Chúng ta có thể không tăng tỷ lệ vốn đầu tư/GDP, nhưng cần điều chỉnh cơ cấu thu hút nguồn vốn đầu tư. Định hướng điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn đầu tư có thể là: giảm tỷ trọng nguồn vốn đầu tư từ kinh tế nhà nước (đã giảm từ 59,8% năm 2001 xuống còn 33,9% năm 2008, nhưng năm 2009 đã tăng lên đạt 40,6%; năm 2010 đã giảm xuống còn 38,1%, nhưng quý I/2011 lại tăng lên đạt 44,5%). Tăng tỷ trọng nguồn vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước (đã tăng từ dưới 25,4% từ năm 2002 trở về trước lên trên 31% từ năm 2003, đạt đỉnh điểm 38,5% vào năm 2007 nhưng sau đó giảm dần xuống còn 33,9% năm 2009; năm 2010 đã tăng lên đạt 36,1%, nhưng quý I/2011 lại giảm xuống còn 26,6%). Giữ tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở mức trên dưới 25% (nếu tính chung thì các nguồn vốn này chiếm trên dưới 40%).

Để đạt được định hướng trên, cần đẩy mạnh việc thực hiện mô hình đầu tư công tư (PPP), đẩy mạnh xã hội hóa, chọn lọc đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Điều quan trọng là chuyển đổi cơ cấu đầu tư vào các nhóm ngành, nhất là nông, lâm nghiệp- thủy sản hiện ở mức thấp xa so với tỷ trọng GDP của nhóm ngành này; đầu tư vào công nghiệp phụ trợ hiện là một trong những yếu tố quan trọng của nhập siêu; đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện thu hút được nhiều việc làm,…

Điều quan trọng là nâng cao hiệu quả đầu tư, để tỷ lệ vốn đầu tư/GDP có thể giảm xuống, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP không bị giảm theo tương ứng. Bản thân việc tăng tỷ trọng nguồn vốn khu vực ngoài nhà nước cũng sẽ góp phần giảm hệ số ICOR- tăng hiệu quả đầu tư chung của toàn bộ nền kinh tế, bởi ICOR của khu vực này thấp hơn nhiều so với ICOR của khu vực kinh tế nhà nước (thời kỳ 2006- 2008 là 4,3 lần so với 6,1 lần).

Về lao động, mặc dù Việt Nam đã bước vào “cơ cấu dân số vàng” từ mấy năm nay và có thể kéo dài vài ba chục năm nữa, nhưng do tốc độ dân số giảm xuống, nên tốc độ tăng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế cũng sẽ chậm lại, do vậy, lợi thế về nguồn lao động dồi dào cũng sẽ giảm xuống.

Giá nhân công rẻ là một lợi thế, song cũng sẽ giảm dần cùng với việc mở cửa hội nhập. Năng suất lao động của Việt Nam còn thấp, là yếu tố tiềm ẩn của lạm phát, của nhập siêu… Do đó, để nâng cao năng suất lao động, phải tăng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo hiện đang còn rất thấp (khoảng 40%); đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học- công nghệ, coi đó là động lực tăng trưởng và coi giáo dục- đào tạo là chìa khóa của khoa học- công nghệ; đổi mới cơ cấu đào tạo (giữa các ngành nghề, giữa lý thuyết và thực hành, giữa công lập và ngoài công lập,…).

Nhìn tổng quát, phải thực hiện nhanh hơn mục tiêu tăng tỷ trọng đóng góp của năng suất tổng hợp- yếu tố chất lượng, phát triển theo chiều sâu- đến năm 2015 lên 31- 32%, đến năm 2020 lên 35%; giảm tỷ trọng đóng góp của yếu tố tăng vốn đầu tư, yếu tố tăng số lượng lao động đang làm việc (yếu tố số lượng, phát triển theo chiều rộng).

Tái cấu trúc nền kinh tế

Cơ cấu nền kinh tế là vấn đề chiến lược, nên tái cấu trúc nền kinh tế là một quá trình lâu dài. Nội dung của tái cấu trúc nền kinh tế có nhiều (gồm 7 nội dung là mô hình kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu doanh nghiệp, cơ cấu thị trường, cơ cấu thể chế, cơ cấu nguồn nhân lực, cơ cấu vốn đầu tư), nhưng Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh đến 5 nội dung quan trọng.

Về cơ cấu ngành kinh tế, trong khi đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP, cần hết sức coi trọng vai trò có ý nghĩa chiến lược lâu dài của nông nghiệp trong việc ổn định xã hội, bảo đảm an ninh lương thực và cải thiện đời sống nhân dân.

Về cơ cấu ngành sản xuất và dịch vụ, cần phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành dịch vụ chất lượng cao, có giá trị gia tăng lớn, tăng sức cạnh tranh; giảm tính gia công, tăng tính chế biến sản phẩm nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.

Tái cấu trúc doanh nghiệp trên cơ sở đổi mới doanh nghiệp nhà nước, phát triển mạnh kinh tế dân doanh.

Tái cấu trúc thị trường trên cơ sở coi trọng hơn thị trường trong nước. Đối với thị trường nước ngoài, một mặt phát triển thị trường lớn, thị trường truyền thống bằng việc mở rộng các mặt hàng (tránh bỏ trứng vào một giỏ), tranh thủ khai thác các thị trường mới, có tiềm năng tăng nhanh.

Nguồn: Chinhphu.vn