
Tin tức
Làm sao để giảm nhập siêu? (11/05)
16/05/2011 - 29 Lượt xem
Để hạn chế nhập siêu và kích thích tiêu dùng hàng nội địa, bộ Công thương đưa ra danh mục các mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu. Danh mục gồm cả trăm loại hàng như động vật sống, sữa và các sản phẩm từ sữa, trứng chim và trứng gia cầm, mật ong tự nhiên; đồ chơi, dụng cụ dùng cho các trò chơi và thể thao; đồ nội thất;… một số mặt hàng xa xỉ như ôtô đua, chơi golf, xe thể thao; máy điện và thiết bị điện, đồng hồ đeo tay, đồng hồ bỏ túi, ngọc trai tự nhiên, đá quý hoặc kim loại quý; rượu bia, thuốc lá, mỹ phẩm...
Về lý thuyết, không khuyến khích các mặt hàng trên sẽ làm giảm nhập khẩu các mặt hàng đó và khuyến khích tiêu dùng các mặt hàng nội địa có thể thay thế. Thế nhưng, đó có phải là giải pháp căn bản và hiệu quả?
Theo tổng cục Thống kê, các nhóm mặt hàng nhập khẩu tăng mạnh của bốn tháng đầu năm 2011 so với cùng kỳ năm ngoái là: bông (219,5%); ôtô nguyên chiếc (175,2%); sợi dệt (168,9%); xăng dầu (164,2%); vải (142,1%); chất dẻo (139,6%); điện tử máy tính (129,3%).
Mức tăng nhập khẩu cao, nhưng nếu tổng kim ngạch không lớn thì sự đóng góp vào tăng nhập khẩu không cao. Nếu lấy kim ngạch nhập khẩu của mặt hàng chia cho tổng kim ngạch nhập khẩu và nhân với tỷ lệ gia tăng nhập khẩu ta được một con số cho thấy sự “đóng góp” cho gia tăng nhập khẩu của nhóm mặt hàng đó trong bốn tháng qua: xăng dầu (7,23%); vải (2,79%); máy móc thiết bị (2,5%); chất dẻo (1,88%); bông (1,66%); điện tử máy tính (1,62%); sợi dệt (1,2%); sắt thép (1,05%); ôtô nguyên chiếc (0,95%)...
Lại còn phải so sánh giá trị xuất và nhập của nhóm mặt hàng đó trong cùng thời gian (bốn tháng qua) thì mới thấy nhóm nào đóng góp chính cho nhập siêu. Các nhóm chính là: dệt may giày dép (xuất 5.667 triệu USD – nhập bông vải sợi, nguyên phụ liệu 4.023 triệu USD ); dầu thô (2.458 – NA); thuỷ sản (1.604 – 126); càphê (1.389 – NA); gạo (1.281 – NA); máy móc thiết bị (1.103 – 4.681 ); điện tử máy tính (1.064 – 1.755 ); xăng dầu (629 – 3.583).
Có thể thấy dệt may – giày dép chắc chắn số xuất cao hơn số nguyên nhiên liệu nhập để làm hàng (nhưng đáng tiếc không cao hơn nhiều tức giá trị gia tăng thấp). Thuỷ sản, càphê, gạo cũng vậy (do đầu vào nhập khẩu là xăng dầu, phân bón không có số liệu (NA) nhưng chắc chắn thấp hơn giá trị xuất khẩu). Cho nên, các ngành này làm giảm nhập siêu chứ không đóng góp cho nhập siêu. Có thể thấy đóng góp cho nhập siêu lớn nhất là máy móc thiết bị (trên 3,5 tỉ USD), xăng dầu gần 2,954 tỉ USD, điện tử – máy tính 691 triệu USD (tổng nhập siêu của ba nhóm mặt hàng này là 7,223 tỉ USD).
Nhìn lại hơn mười năm qua thì sao?
Mức độ nhập siêu/xuất khẩu trong giai đoạn 2000 – 2009 là rất lớn, có tới năm năm trên 20% (xem biểu đồ).
Có thể thấy vấn nạn nhập siêu nằm sâu trong nền kinh tế Việt Nam: nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, tạo ra ít giá trị gia tăng. Và chỉ có thể giải quyết vấn đề này bằng tái cơ cấu triệt để nền kinh tế. Cải tổ tận gốc rễ các doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá chúng, buộc chúng phải cạnh tranh, siết chặt ràng buộc ngân sách của chúng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, cải thiện hạ tầng cơ sở cứng (đường sá, cảng) và mềm (luật, thủ tục hành chính, củng cố lòng tin…)
Và việc ban hành các biện pháp hành chính như danh mục không khuyến khích như vừa rồi tuy cũng đáng hoan nghênh nhưng không căn bản và kết quả thực của bốn tháng vừa qua cũng minh chứng và các số liệu của các tháng tới chắc chắn cũng vậy. Sự cải thiện, nếu có, là không lớn và đấy là điều dễ hiểu. Nếu các biện pháp này được tính toán chi tiết hơn (tính đến tỷ trọng, tỷ lệ đóng góp vào nhập siêu của các nhóm hàng, hiệu ứng lan toả về nhập khẩu của các mặt hàng…), thì có thể mang lại sự cải thiện tốt hơn, cho dù vẫn không phải là giải pháp cơ bản.
Tồi tệ hơn là có những mặt hàng như xe nguyên chiếc thuộc diện không khuyến khích nhập nhưng kim ngạch nhập khẩu bốn tháng qua lại bằng 175,2% so với bốn tháng đầu năm ngoái, tức là tăng 75,2%. Thậm chí bộ Tài chính còn ra quy định tăng tiêu chuẩn mua xe mới cho các quan chức nhà nước cấp cao. Lời nói và việc làm thật bất nhất và điều đó khiến suy giảm lòng tin vào tính nhất quán của các chính sách nhà nước.
Phải chú tâm vào các biện pháp căn bản để giải quyết vấn đề nhập siêu cũng như các vấn đề bất cân đối kinh tế vĩ mô khác, chứ không phải bằng các phong trào, siết, cấm, kiểm tra. Tuy các biện pháp nhất thời đôi khi cũng cần thiết nhưng nếu làm thì cũng phải nhất quán chứ đừng nên để chính sách này đá chính sách kia như hạn chế nhập xe và nâng tiêu chuẩn sử dụng xe, trực tiếp và gián tiếp khuyến khích nhập thêm ôtô mới như vừa qua.
Những mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu và hiệu quả hạn chế nhập siêu Ngày 25.3.2011, bộ Công thương ra quyết định 1380/QĐ-BCT về việc ban hành danh mục các mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu. Sau đó, bộ Tài chính có công văn 4388/BTC-CST gửi các bộ, ngành, hiệp hội về dự kiến điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu. Dư địa chính sách ít Theo đó, quyết định số 1380 của bộ Công thương gồm 297 nhóm hàng, với 3.724 dòng thuế, tập trung chủ yếu vào các nhóm mặt hàng tiêu dùng. Kết quả đối chiếu với cam kết WTO năm 2011 cho thấy có 3.406 dòng thuế đã bằng mức trần, 149 dòng thấp hơn từ 1 – 3%, 169 dòng thấp hơn từ 4% trở lên. Bộ Tài chính dự kiến sẽ không tăng thuế suất đối với những dòng thuế hiện thấp hơn từ 1 – 3% vì chênh lệch không nhiều. Trong 169 dòng thấp hơn từ 4% trở lên thì chỉ xem xét điều chỉnh thuế suất của 11 dòng, số còn lại không điều chỉnh vì các mặt hàng ứng với những dòng thuế này có tính chất lưỡng dụng (vừa là hàng tiêu dùng, vừa là nguyên liệu), dễ phát sinh vướng mắc khi tăng thuế suất. Như vậy, dư địa chính sách về thuế để hạn chế nhập khẩu các mặt hàng trong danh mục không khuyến khích nhập khẩu trên hầu như không còn, chủ yếu sẽ phải dùng biện pháp hành chính nhưng cũng phải trong khuôn khổ cho phép của cam kết quốc tế đã ký. Giải pháp tình thế, ít hiệu quả Ở một khía cạnh khác, thì việc nhập khẩu nhiều mặt hàng trong danh mục này… không ảnh hưởng nhiều đến vấn đề nhập siêu. Ngoài lý do chúng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng kim ngạch nhập khẩu còn có lý do chúng có hệ số lan toả về nhập khẩu rất thấp. Khi tính toán ảnh hưởng lan toả về nhập khẩu của các ngành dựa trên bảng cân đối liên ngành của Việt Nam với cơ cấu mới nhất, thì thấy những nhóm hàng hoá “phải” hạn chế nhập khẩu có hệ số lan toả về nhập khẩu rất thấp. Ví dụ: nhóm các sản phẩm chăn nuôi (động vật sống) có hệ số lan toả về nhập khẩu rất thấp. Nếu mức lan toả chung là 100%, thì hệ số lan toả đến nhập khẩu của nhóm sản phẩm này chỉ vào khoảng 70%; nhóm ngành thuỷ sản do nuôi trồng cũng có mức lan toả về nhập khẩu thấp (70% của mức lan toả chung). Các nhóm sản phẩm chế biến từ sản phẩm nông nghiệp như rau củ quả, chế phẩm từ ngũ cốc cũng có hệ số này thấp. Trong khi đó hầu hết các nhóm ngành thuộc công nghiệp chế biến chế tạo có hệ số lan toả đến nhập khẩu cao. Điều này cho thấy việc không khuyến khích nhập khẩu những mặt hàng này chỉ là giải pháp tình thế và không hiệu quả trong việc hạn chế nhập siêu. Để hạn chế nhập siêu điều quan trọng là Chính phủ cần đưa ra những biện pháp tổng thể và dài hạn mang tính chiến lược, và cần phải gắn chúng với tái cấu trúc nền kinh tế. |
Nguồn: SGTT
