
Tin tức
Lạm phát nhìn từ hiệu quả đầu tư và cơ cấu kinh tế (17/05)
17/05/2011 - 17 Lượt xem
Theo số liệu thống kê, lạm phát của Việt Nam đang ở mức cao nhất trong vòng hai năm qua: tính đến tháng 4 năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của cả nước so với tháng 12 năm 2010 là 9,64%.
Theo tính toán của nhóm nghiên cứu chúng tôi từ cấu trúc chi phí từ bảng bảng cân đối liên ngành 2007, thì ảnh hưởng lan toả đến giá cả của nền kinh tế từ việc tăng giá năng lượng như điện, xăng và than gần đây vào khoảng 4,8%; nếu bao gồm cả ảnh hưởng của tăng tỷ giá thì ảnh hưởng lan toả đến CPI vào khoảng trên 5%. Như vậy, có thể thấy nguyên nhân của lạm phát một phần là do chi phí đẩy, nhưng còn có nguyên nhân khác.
Hiệu quả đầu tư kém
Hiệu quả đầu tư thể hiện qua hệ số ICOR (hệ số sinh lời từ đồng vốn đầu tư). ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế càng thấp. Theo một tính toán của chúng tôi, giai đoạn 2006 – 2010, hệ số ICOR của khu vực Nhà nước vào khoảng 10,2 của khu vực FDI là trên 9,7, trong khi của khu vực tư nhân chỉ là 5. Điều này có nghĩa ở khu vực Nhà nước và khu vực FDI phải bỏ ra trên dưới 10 đồng vốn đầu tư mới thu được một đồng tăng trưởng.
Những năm gần đây đầu tư 1 đồng thì chỉ còn 0,66 đồng tạo thành tích luỹ tài sản và số tiền không tạo thành tài sản tăng lên 0,34 đồng (năm 2000, các con số này lần lượt là 0,7 và 0,3 đồng). Như vậy, lượng cung tiền sẽ tăng lên do lượng tiền bỏ ra nhằm mục đích đầu tư lại không đi vào đầu tư. |
Đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng giai đoạn 2006 – 2010 chiếm tới trên 65%. Điều này cho thấy nền kinh tế chủ yếu phát triển theo chiều rộng, ít dựa vào các yếu tố về chất lượng tăng trưởng khác như công nghệ, kinh tế trí thức, trình độ quản lý v.v Trong tổng vốn đầu tư xã hội, đây là hai khu vực chiếm tỷ lệ cao nhất (năm 2009 chiếm 40,6% và 33,9% theo số liệu của tổng cục Thống kê).
Ngoài ra, khi bỏ một lượng tiền rất lớn để đầu tư mà chỉ một phần trong đó tạo ra tài sản, thì lượng cung tiền sẽ lớn lên, làm trầm trọng thêm sự mất cân đối tiền – hàng. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, nếu năm 2000 bỏ ra một đồng thì có khoảng 0,7 đồng tạo thành tài sản và 0,3 đồng không tạo thành tài sản (tích luỹ gộp tài sản). Tuy nhiên, những năm gần đây đầu tư 1 đồng thì chỉ còn 0,66 đồng tạo thành tích luỹ tài sản và số tiền không tạo thành tài sản tăng lên 0,34 đồng. Như vậy, lượng cung tiền sẽ tăng lên do lượng tiền bỏ ra nhằm mục đích đầu tư lại không đi vào đầu tư.
Chính phủ ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP với sáu nhóm giải pháp nhằm chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội, trong đó cắt giảm đầu tư công là giải pháp quan trọng . Điều này thực sự đúng đắn nhưng chưa đủ: một mặt cần cắt giảm những công trình/dự án kém hiệu quả; mặt khác cần tăng cường đầu tư cho các công trình/dự án đang mang lại những hiệu quả thiết thực cho đất nước. Theo nguyên lý kể cả từ các hàm tổng cung hoặc từ các quan hệ kiểu Keynes – Leontief, thì việc cắt giảm đầu tư sẽ dẫn đến thu hẹp về sản lượng và dẫn đến làm giảm GDP. Tuy không đặt vấn đề tăng trưởng GDP là quan trọng, nhưng nếu hiệu quả đầu tư vẫn như vậy thì quan hệ tiền – hàng sẽ không được cải thiện, thậm chí còn căng thẳng thêm. Như vậy, cần có sự rà soát và phân loại các công trình/dự án hiệu quả và không hiệu quả trước khi ra quyết định đầu tư hoặc cắt giảm đầu tư.
Đối với khối doanh nghiệp tư nhân (không kể FDI) tuy làm ăn có hiệu quả, nhưng lại đang gặp khó khăn trong tiếp cận đồng vốn, nhất là trong bối cảnh Chính phủ chủ trương thắt chặt tiền tệ. Việc duy trì sản xuất của khu vực này là rất khó khăn, họ phải xoay xở bằng nhiều hình thức. Nhưng dù bằng hình thức nào, thì tỷ lệ chi phí trung gian so với giá trị sản xuất sẽ tăng, dẫn đến hiệu quả sản xuất sẽ sụt giảm. Như vậy, Nhà nước cũng cần ra soát lại cả khu vực này, nhằm hỗ trợ cho những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thực sự đang gặp khó khăn.
Cơ cấu kinh tế không hợp lý
Khu vực kinh tế Nhà nước được đầu tư nhiều nhất, chiếm khoảng 40% tổng đầu tư xã hội, đóng góp cho GDP 34%, chỉ sử dụng khoảng 9% lượng lao động. Trong khi đó, khu vực ngoài nhà nước đóng góp tới 47% GDP và sử dụng tới 87% lao động, nhưng lại chỉ nhận được 32% tổng vốn đầu tư. Khu vực kinh tế tư nhân trong nước, mặc dù hiện chỉ đóng góp 10% GDP và sử dụng 7% số lao động, song lại làm ăn có hiệu quả cao hơn hẳn với doanh thu thuần gấp ba lần so với khu vực doanh nghiệp Nhà nước và trên 2,5 lần so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Tương tự, cơ cấu vốn đầu tư cũng có sự lệch lạc khi dành một lượng vốn đầu tư tập trung vào Khu vực II (công nghiệp - xây dựng) trong khi Việt Nam là một đất nước có gần 3/4 dân số và người lao động đang sống ở các vùng nông thôn. Trong cơ cấu nền kinh tế, Khu vực I (nông, lâm nghiệp và thủy sản) tuy chỉ đóng góp khoảng 15 - 16% vào GDP nhưng lại sử dụng tới 53,9% lực lượng lao động. Theo báo cáo của Chính phủ, trong số 18 sản phẩm xuất khẩu chủ lực năm 2010 đạt doanh số trên 1 tỷ USD có đóng góp đáng kể của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản. Ví dụ: xuất khẩu thủy sản đứng thứ ba với gần 5 tỷ USD, gỗ và sản phẩm gỗ đứng thứ sáu với 3,4 tỷ USD, gạo đứng thứ bảy với 3,2 tỷ USD. Những mặt hàng xuất khẩu quan trọng khác của khu vực kinh tế này là cao su 2,4 tỷ USD; cà phê 1,8 tỷ USD; hạt điều trên 1,1 tỷ USD. Trong khi đó, việc tiêu thụ sản phẩm của khu vực công nghiệp chế biến chế tạo trong nước hoặc xuất khẩu gây nên nhập khẩu tăng cao, khu vực này chính là nguyên nhân của nhập siêu trong những năm qua.
Nên xem xét tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam theo hướng tận dụng nội lực, cần đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp và thủy sản, và ngành công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản |
Về khu vực FDI, ngoài những vấn đề như… chuyển giá, thì một vấn đề quan trọng nữa là khi vào Việt Nam hầu hết các doanh nghiệp FDI đều nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất. Các sản phẩm làm ra chứa hàm lượng lớn các yếu tố nhập khẩu. Do đó, dù các sản phẩm do khu vực này làm ra được xuất khẩu hay tiêu dùng trong nội địa thì Việt Nam vẫn chỉ đóng vai trò gia công giá rẻ mà thôi.
Như vậy, để có thể giảm lạm phát, và quan trọng hơn cả là có được một nền kinh tế phát triển bền vững, nên xem xét tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam theo hướng tận dụng nội lực phù hợp với những khả năng, thế mạnh và nguồn lực của chính mình. Cần đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp và thủy sản, và ngành công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản bởi vì các ngành này có đóng góp đáng kể vào GDP của Việt Nam. Hơn nữa, đây là lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong bối cảnh tiềm ẩn khủng hoảng lương thực và thực phẩm toàn cầu hiện nay. Các chuyên gia cấp cao của các nước châu Âu đã đề nghị ngân hàng Phát triển châu Á trong những thập niên tới ủng hộ mạnh mẽ hơn cho các định chế tài chính hỗ trợ tích cực và hiệu quả cho phát triển nền nông nghiệp chất lượng cao nhằm tăng khả năng ứng phó với mất an ninh lương thực toàn cầu, và góp phần giảm nghèo trong các nước khu vực châu Á đang có 900 triệu người sống dưới ngưỡng nghèo đói.
Nguồn: SGTT
