
Tin tức
Thay đổi chính sách và áp lực của doanh nghiệp (24/05)
24/05/2011 - 16 Lượt xem
Sức ép nặng nề từ chính sách
Theo TS Nguyễn Minh Phong, từ đầu năm tới nay, Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách nhằm kiềm chế sức ép lạm phát, nhất là giảm áp lực lạm phát tiền tệ; cải thiện cân đối cung - cầu về ngoại tệ, ổn định tỷ giá trên cơ sở thu hẹp chênh lệch 2 giá (trong nước và quốc tế, chính thức và tự do), cũng như kiểm soát tốt hơn các hoạt động đầu cơ, tạo sóng trên thị trường vàng và thị trường USD…Tuy nhiên, việc thay đổi chính sách liên tục cũng khiến cho không ít các DN gặp khó khăn khi phải sa vào giải quyết các sự vụ tình huống nhiều hơn là tập trung các mục tiêu dài hạn, hoạt động kinh doanh không có hiệu quả, hàng hoá bị tồn kho, phát sinh thêm nhiều công nợ…
PGS-TS Lê Xuân Bá - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho biết, việc thực hiện giải pháp chính sách tiền tệ thắt chặt đã được Ngân hàng Nhà nước triển khai theo đúng Nghị quyết 11 của Chính phủ. Với việc thực hiện chính sách này, 4 tháng đầu năm, tín dụng tăng trưởng trên 5%, tổng phương tiện thanh toán tăng 1,5% nhưng đã gây nhiều khó khăn cho DN, đặc biệt những DN có hoạt động sản xuất – kinh doanh phụ thuộc lớn vào nguồn vốn vay.
“Việc thắt chặt tín dụng ở mức dưới 20% buộc các ngân hàng phải lựa chọn những DN có thể đáp ứng được điều kiện vay vốn. Một cách khác để các ngân hàng xoay sở trong hạn mức tín dụng trên là đưa lãi suất lên cao. Chính điều này đang khiến DN càng khó khăn và cũng không có lựa chọn nơi nào khác vì hạn mức tín dụng 20% được cào bằng và áp dụng cho tất cả các ngân hàng. Như vậy, việc giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng dưới 20% khiến nguồn vốn tín dụng ít hơn, lãi suất cao hơn, gây khó khăn cho cả khả năng tiếp cận và sử dụng vốn của DN. Trong khi đó, nhìn theo cơ cấu nguồn vốn của đa số DN hiện nay, vốn vay chiếm gần 60% tổng nguồn vốn. Bên cạnh đó, với mức lãi suất huy động 14%-15% như hiện nay thì mức lãi suất cho vay khoảng 17-19%. Tuy nhiên, so với “sức khỏe” của DN hiện nay thì mức lãi suất này lại là quá cao, khiến khả năng sinh lợi của các DN suy giảm, lợi nhuận không đủ bù lãi vay, thậm chí thua lỗ” – ông Bá lý giải.
Đồng quan điểm, TS Nguyễn Minh Phong cho rằng, trong điều kiện lãi suất vay trên 20%, chắc chắn đa số các DNVVN sẽ phải đối diện với áp lực ngày càng căng thẳng về trả lãi và thanh toán các khoản nợ đến hạn, duy trì hoạt động, lợi nhuận và cả bộ máy sản xuất. Nguy cơ thu hẹp quy mô hoạt động và giãn thợ có thể đậm hơn nếu sự căng thẳng lãi suất cao kéo dài quá lâu và quá sức chịu đựng của DN.
Hơn nữa, ngay cả các nhà đầu tư trên thị trường BĐS và TTCK cũng không mấy ai dám “chịu chơi” vay lãi suất cao để đầu tư dài hạn. Nói cách khác, lãi suất cao cũng sẽ khiến cho bức tranh toàn cảnh TTCK và thị trường BĐS những tháng cuối năm 2011 không mấy sáng sủa, và sẽ kích đẩy các hoạt động chủ yếu có tính “tạo sóng” và “lướt sóng” mà thôi. Thậm chí, có khả năng nhiều nhà đầu tư không chịu nổi mức lãi suất vay cao, buộc phải “xả hàng và tháo chạy” khỏi thị trường, khiến giá chứng khoán và một số sản phẩm trên phân khúc thị trường BĐS cao cấp có thể hạ giá khá ấn tượng trong những quý tới.
Ông Bá cũng cho biết thêm, việc điều chỉnh tỷ giá và lãi suất tiết kiệm USD đã tạo khả năng giải quyết cung cầu USD, tính thanh khoản ngoại tệ tăng lên, góp phần chống nhập siêu, hạn chế việc găm giữ và đầu cơ USD. Tuy nhiên, việc điều chỉnh tỷ giá cũng những tác động tiêu cực đến DN mà ảnh hưởng rõ nhất là việc tăng chi phí đối với các DN phải sử dụng nhiều ngoại tệ nhập khẩu vật tư, nhiên liệu, thiết bị làm tăng giá thành, giá vốn hàng nhập khẩu và hàng sử dụng nhiều nguyên liệu nhập khẩu, không chỉ những DN nhập khẩu mà cả những DN xuất khẩu phải nhập nhiều nguyên liệu từ nước ngoài như dệt may, cơ khí, dược,…
Đối với DN nhập nguyên liệu để sản xuất và xuất khẩu, việc điều chỉnh tăng tỷ giá đòi hỏi các DN phải nhìn lại và điều chỉnh cơ cấu sản xuất kinh doanh hợp lý, tăng tỷ lệ nội địa hóa, sử dụng những nguyên, vật liệu có chất lượng tương đương với nguyên liệu nhập từ nước ngoài.
Ngoài ra, việc điều chỉnh tăng giá xăng, giá điện đã tác động đến DN ở hầu hết các ngành, lĩnh vực. Việc tăng giá điện, giá xăng đã làm tăng giá thành sản phẩm và giảm lợi nhuận của các ngành sử dụng nhiều điện và xăng. Để đối phó với việc tăng giá điện, thời gian qua, giải pháp tối ưu được các DN lựa chọn là thay đổi thời gian sản xuất, tăng năng suất lao động, đồng thời tìm các giải pháp cải tiến công nghệ, tiết giảm tiêu hao điện năng.
Đối với việc cắt giảm đầu tư công, ông Bá lý giải đây là giải pháp cần thiết để giảm bội chi ngân sách nhà nước nhằm bảo bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, việc cắt giảm đầu tư công cũng ảnh hưởng tiêu cực đến các DN, đặc biệt là DN hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, xây lắp, những DN nhỏ và vừa. Ví dụ, theo Bộ Giao thông Vận tải, năm 2011 sẽ giảm 50% vốn của các dự án trái phiếu chính phủ cho ngành giao thông từ 20.000 - 25.000 tỉ đồng xuống còn 11.000 tỉ đồng, chỉ ưu tiên vốn cho các dự án có thể hoàn thành trong năm 2011 có phát huy ngay tác dụng về kinh tế - xã hội. Riêng các dự án đang ở khâu chuẩn bị đầu tư, quyết định đầu tư và khởi công dự án mới thì hoàn toàn đình hoãn lại. Việc cắt giảm các dự án đầu tư công, nhất là các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu chính phủ đã ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp xây dựng tại các địa phương. Các nhà thầu có dự án bị đình hoãn phải đối mặt với nguy cơ không còn nguồn thu, không trả được nợ ngân hàng.
Dưới góc độ của một DN, Th.S Đỗ Hồng Khanh - Phó chủ tịch Hội các nhà QT DNVN, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Bạch Đằng, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Giống gia cầm Ba Vì cho biết, đối với DN xây lắp chịu chi phí lãi vay ngân hàng rất lớn do giá trị công trình lớn, thi công kéo dài phải ứng vốn, quyết toán chậm …với DN chăn nuôi do có đặc thù phải phụ thuộc rất nhiều vào thị trường, rất dễ bị tác động bởi chính sách của nhà nước, lượng vốn lưu động nhỏ, quay vòng nhanh nên cũng bị ảnh hưởng mạnh.
Thực tế, những chính sách điều hành trong thời gian vừa qua có tác động khiến DN gặp khó khăn về vốn nhưng các chuyên gia và DN đều cho rằng nó lại là hợp lý và cần thiết trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong một báo cáo công bố ngày 6/4/2011 về triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2011, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã nhận định: “việc thay đổi về chính sách trong năm nay đã giảm được những rủi ro trong nước. Nếu sự ổn định kinh tế vĩ mô được khôi phục thì trong trung và dài hạn, Việt Nam vẫn là một điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Vì tình hình kinh tế vĩ mô ổn định hơn sẽ kích thích đầu tư trực tiếp nước ngoài và tổng cân bằng cán cân thanh toán theo dự đoán sẽ được cải thiện”.
Cần tránh chính sách kiểu ‘giật cục’
Tuy nhiên, ông Lê Xuân Bá cho rằng, để hoàn thiện các giải pháp chính sách này và giảm thiểu tác động tiêu cực, một số vấn đề sau cần được xem xét: Thứ nhất, định hướng điều chỉnh chính sách tiền tệ nói chung, chính sách tỷ giá nói riêng và một số chính sách khác (giá điện, giá xăng,…) theo hướng nào cần có tính tiên liệu, có tính ổn định để các DN chủ động được trong kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, đối với chính sách tiền tệ thắt chặt. Việc áp dụng hạn mức tín dụng dưới 20% tại tất cả các ngân hàng là chưa hợp lý. Mức khống chế này không nên quy định chung cho tất cả các ngân hàng mà nên căn cứ vào quy mô hoạt động, cũng như chất lượng hoạt động của từng ngân hàng. Đặc biệt là cần phải xem xét dòng vốn của các ngân hàng vào sản xuất kinh doanh nhiều hay vào lĩnh vực phi sản xuất là chính. Những ngân hàng đã đưa tới 80-90% vốn vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, quy mô ngân hàng lớn, làm ăn hiệu quả thì ngân hàng nhà nước nên xem xét nâng mức dư nợ lên. Còn ngân hàng có quy mô nhỏ, huy động với giá cao và phần lớn vốn đẩy vào lĩnh vực phi sản xuất thì phải hạ thấp hạn mức tín dụng xuống hơn nữa.
Thứ ba, quy định về cho vay ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay là người cư trú mới cần cụ thể hóa hơn nữa đối tượng được vay ngoại tệ để xác định đúng đối tượng cho vay, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng xa xỉ phẩm và không thiết yếu,…
Thứ tư, cần tiếp tục tăng cường kỷ luật tài chính trong đầu tư công, nghiên cứu cụ thể hóa tiêu chí và các dự án cần cắt giảm trong chính sách tài khóa; cải tiến trong khâu thẩm định và ra quyết định đầu tư đảm bảo tính minh bạch, khách quan.
Đi vào cụ thể hơn, ông Đỗ Hồng Khanh kiến nghị, mặc dù ủng hộ với các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ (Đặc biệt với Nghị quyết 11/NQ-CP, ngày 24/02/2011) song kiềm chế lạm phát, thắt chặt tiền tệ, nhưng cũng nên có chính sách “mở” cho xuất khẩu, sản xuất nông nghiệp…Nhà nước phải có quan điểm bình đẳng trong quan hệ kinh tế với DN. Cụ thể: với ngành xây lắp, khi các công trình đã quyết toán, nếu chủ đầu tư chưa thu xếp được vốn thì khoản nợ đó phải được tính lãi suất trả cho DN. Có những chính sách tích cực hơn nữa cho khu vực nông nghiệp nông thôn, nên giảm thuế thu nhập DN, không nên thắt chặt tiền tệ hơn nữa, cắt giảm mạnh hơn đầu tư công, chính sách vĩ mô phải có tầm nhìn xa, có tính ổn định, tránh kiểu “giật cục”.
“Nếu doanh nghiệp năng động thì phải nhìn nhận tình hình hiện nay là cơ hội tốt để tái cơ cấu bộ máy mạnh mẽ hơn, tăng hiệu quả sử dụng vốn” - Phó Chủ tịch Hội Các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam (VACD) Đỗ Hồng Khanh đánh giá.
Nguồn: DDDN
